Cả nước có 5.069 chủ thể OCOP và 9.852 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên

Tính đến ngày 30/6/2023, cả nước có 63/63 tỉnh, TP đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP, có 5.069 chủ thể OCOP, 9.852 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên.

Khẳng định được giá trị và chất lượng trên thị trường

Theo Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2021-2025, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT), tính đến ngày 30/6/2023, có 63/63 tỉnh, TP trực thuộc Trung ương đã xây dựng và ban hành Đề án/Kế hoạch triển khai Chương trình OCOP giai đoạn 2021-2025.

 
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan trao giấy chứng OCOP 5 sao cấp Quốc gia cho các chủ thể.

Chương trình OCOP tiếp tục được các địa phương triển khai đồng bộ, rộng khắp, trở thành một giải pháp được ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn.

Các địa phương tiếp tục chủ động ban hành chính sách riêng về hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP, đặc biệt là về phát triển vùng nguyên liệu, liên kết chuỗi giá trị, xúc tiến thương mại, khen thưởng sản phẩm OCOP… điển hình như: Tuyên Quang, Nam Định, Hà Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bến Tre…

Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác triển khai Chương trình, hầu hết các tỉnh, thành phố đã có văn bản đôn đốc, chỉ đạo đẩy mạnh công tác triển khai, nâng cao chất lượng sản phẩm OCOP, điển hình như: Lai Châu, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Kon Tum, Đồng Nai, Tiền Giang, Đồng Tháp, Cà Mau,…

Đến nay, 100% các tỉnh, TP đã tổ chức đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP. Căn cứ Quyết định số 148/QĐ-TTg ngày 25/2/2023 của Thủ tướng Chính phủ, nhiều địa phương đã kiện toàn Hội đồng đánh giá, phân hạng cấp tỉnh và hướng dẫn phân cấp đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP 3 sao cho cấp huyện.

Ở cấp Trung ương, ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 919/QĐ-TTg, Bộ NNPTNT đã chủ trì, phối hợp với các bộ để kiện toàn Hội đồng đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP.

Tính đến ngày 30/6/2023, cả nước đã có 63/63 tỉnh, TP đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP. Đã có 9.852 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên, trong đó 66,9% sản phẩm 3 sao, 32,2% sản phẩm 4 sao, 0,6% sản phẩm tiềm năng 5 sao và 42 sản phẩm 5 sao đã được Bộ NNPTNT công nhận.

Đã có 5.069 chủ thể OCOP, trong đó có 38,5% là HTX, 24,4% là doanh nghiệp, 34,1% là cơ sở sản xuất/hộ kinh doanh, còn lại là tổ hợp tác.

Các địa phương đã khai thác được tiềm năng, thế mạnh để phát triển sản phẩm OCOP, điển hình như: vùng Đồng bằng sông Hồng, chiếm 31,36% tổng sản phẩm OCOP cả nước; vùng miền núi phía Bắc, chiếm 19,8% và vùng Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 18,4%.

Sản phẩm OCOP đang từng bước khẳng định được giá trị và chất lượng trên thị trường, được người dân tín nhiệm. Đặc biệt, các sản phẩm OCOP 5 sao đã được Lãnh đạo Đảng và Nhà nước tin tưởng, lựa chọn làm quà tặng trong các hội nghị quan trọng và các chuyến công tác nước ngoài; đồng thời, được một số bộ, ngành sử dụng làm quà tặng đại biểu trong các hội nghị của ngành.

Cùng với đó, hoạt động quảng bá và xúc tiến thương mại tiếp tục được triển khai mạnh mẽ từ Trung ương đến các địa phương. Bộ NNPTNT phối hợp với các cơ quan và địa phương tổ chức tham gia các Hội chợ quốc tế (tại Thái Lan, Châu Âu, Nhật Bản);

Tổ chức các Diễn đàn/hội chợ cấp vùng, cấp quốc gia để quảng bá, giới thiệu sản phẩm OCOP. Đặc biệt, Bộ và các địa phương như: Hà Nội, Thái Nguyên, Hà Tĩnh, Bắc Giang,… đã đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quảng bá, xúc tiến thương mại sản phẩm OCOP; kết nối và quảng bá, thương mại sản phẩm OCOP trên mạng xã hội, thương mại điện tử…

Các hoạt động đã được tổ chức thường xuyên, với nhiều hình thức khác nhau, góp phần tạo sức lan tỏa, nâng cao hình ảnh sản phẩm và thương hiệu OCOP Việt Nam trên thị trường.

Căn cứ nhiệm được giao, trên cơ sở đề xuất của các địa phương, Bộ NNPTNT đã phê duyệt danh mục mô hình thí điểm thuộc Chương trình OCOP giai đoạn 2021-2025 (Quyết định số 799/QĐ-BNN-VPĐP ngày 8/3/2023 và Quyết định số 1528/QĐ-BNN-VPĐP ngày 14/4/2023) cho 30 mô hình thuộc 3 nhóm: Mô hình thí điểm phát triển chuỗi giá trị sản phẩm OCOP gắn với vùng nguyên liệu địa phương, phát triển chế biến quy mô nhỏ và vừa (theo hướng kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ,…); Mô hình phát triển chuỗi sản phẩm OCOP xanh gắn với mục tiêu phát triển cộng đồng trong quản lý tài nguyên và bảo tồn đa dạng sinh học; Mô hình phát triển sản phẩm OCOP về dịch vụ du lịch gắn với nâng cao vai trò tổ chức và quản lý cộng đồng.

Hiện nay, các tỉnh đang chủ động xây dựng dự án/kế hoạch, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để triển khai thực hiện mô hình. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có văn bản hướng dẫn các địa phương triển khai mô hình thí điểm (Văn bản số 4541/BNN-VPĐP ngày 12/7/2023).

Tác động tích cực, đậm nét đến phát triển kinh tế nông thôn

Bên cạnh những kết quả kể trên, Chương trình OCOP đã có những tác động tích cực, đậm nét đến phát triển kinh tế nông thôn.

Chương trình OCOP đã góp phần chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ sang sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị, theo tiêu chuẩn, quy chuẩn, có truy suất nguồn gốc và theo nhu cầu thị trường. Khơi dậy tiềm năng đất đai, sản vật, lợi thế so sánh, đặc biệt là các giá trị văn hóa vùng miền để hình thành các sản phẩm OCOP tích hợp “đa giá trị”, gắn kết giữa phát triển nông nghiệp với dịch vụ, du lịch.

Thông qua chương trình OCOP, nhiều địa phương đã quy hoạch được các vùng nguyên liệu đặc sản, phát triển các ngành nghề nông thôn, đặc biệt là bảo tồn và phát triển nhiều làng nghề truyền thống. Hình thành nhiều sản phẩm OCOP gắn với vai trò như một “đại sứ” chuyển tải những câu chuyện sản phẩm mang tính nhân văn của vùng, miền, như: sản phẩm trà Phìn Hồ mang hương sắc, văn hóa của đồng bào người Dao ở vùng núi Hoàng Su Phì tỉnh Hà Giang; sản phẩm từ sen – thể hiện những giá trị về văn hóa, con người xứ sở sen Hồng tỉnh Đồng Tháp.

Sản phẩm OCOP đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm; có mẫu mã, bao bì đa dạng và thân thiện với môi trường, phù hợp yêu cầu của thị trường. Góp phần gia tăng giá trị, giúp các chủ thể tăng quy mô sản xuất và doanh thu.

Chương trình thúc đẩy hướng đi về phát triển sinh kế ở những vùng đặc biệt khó khăn và các nhóm yếu thế như: đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ (kết quả sau 5 năm triển khai cho thấy, tỷ lệ chủ thể OCOP là nữ giữ ổn định với khoảng 40%. Đặc biệt, ở khu vực miền núi, tỷ lệ chủ thể OCOP là nữ rất cao, như: ở Bắc Trung Bộ lên đến 50,6%, MN phía Bắc là 43,4% và Tây Nguyên là 45,2%).

Như vậy, đến nay có thể khẳng định, Chương trình OCOP rất phù hợp về định hướng để phát huy thế mạnh, lợi thế về điều kiện tự nhiên, văn hóa của các địa phương, đặc biệt là các địa phương còn nhiều khó khăn về phát triển sản xuất hàng hóa, vùng sản xuất tập trung, nhưng lại có sự đa dạng về tài nguyên thiên nhiên, khí hậu và văn hóa đặc trưng…

Chương trình OCOP đã trở thành một giải pháp phát triển kinh tế nông thôn, gắn liền với xây dựng nông thôn mới, được triển khai đồng bộ, rộng khắp, được tất cả các địa phương chủ động triển khai một cách hiệu quả và thành công.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nổi bật, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận những khó khăn, tồn tại của Chương trình sau hơn 5 năm triển khai.

Số lượng sản phẩm OCOP tăng nhanh nhưng chưa thực sự bền vững, thể hiện là: một số địa phương còn chạy theo thành tích, tập trung vào những sản phẩm đã được hình thành, không phải là các sản phẩm có lợi thế; thiếu sự chủ động của các chủ thể khi tham gia vào chương trình; chưa tập trung đến các giải pháp về chuẩn hóa chất lượng, mẫu mã bao bì sản phẩm, nâng cao năng lực thực sự của chủ thể (về quản trị, tổ chức sản xuất, năng lực thị trường…);

Hoạt động xúc tiến thương mại tuy được nhiều địa phương triển khai nhưng còn manh mún, thiếu đồng bộ, chưa hình thành được hệ thống quảng bá, xúc tiến thương mại mang tính kết nối, chuyên sâu về sản phẩm OCOP. Đặc biệt, công tác quản lý, giám sát sản phẩm sau khi được công nhận còn là vấn đề nổi cộm cần được quan tâm và đẩy mạnh.

Để chương trình OCOP đạt hiệu quả hơn nữa, thời gian tới, Bộ NNPTNT, và các cấp, ngành, địa phương sẽ tăng cường tuyên truyền, chuyển đổi tư duy và nâng cao năng lực cho các chủ thể OCOP; Hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP dựa trên lợi thế và theo yêu cầu của thị trường; Triển khai hiệu quả xây dựng các mô hình thí điểm; Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại;

Đồng thời, xây dựng và quản lý đồng bộ và hiệu quả thương hiệu OCOP Việt Nam; Tập trung, ưu tiên thị trường trong nước; Xây dựng hệ thống xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm OCOP ra thị trường quốc tế; Nâng cao chất lượng đánh giá, phân hạng và tăng cường kiểm tra, giám sát sản phẩm OCOP…

Trao giấy chứng nhận sản phẩm OCOP 5 sao cho 12 chủ thể
Sáng 17/7, Bộ NNPTNT tổ chức trao giấy chứng nhận sản phẩm OCOP cấp Quốc gia đạt tiêu chuẩn 5 sao cho 12 chủ thể.
Hà Nội có bộ sản phẩm gốm men suối ngọc, Hợp tác xã Sản xuất kinh doanh gốm sứ Tân Thịnh (huyện Gia Lâm, Hà Nội) và sản phẩm “Chăn bông tơ tằm tự dệt” của Công ty TNHH Dâu tằm tơ Mỹ Đức (huyện Mỹ Đức, Hà Nội) vinh dự nhận được chứng nhận 5 sao OCOP.
20 sản phẩm khác của 10 chủ thể đã được Bộ NNPTNT trao chứng nhận OCOP 5 sao.
Các địa phương có sản phẩm OCOP 5 sao được công nhận đợt này gồm: Trà Vinh (3 sản phẩm); Kiên Giang (6 sản phẩm); Bình Phước (3 sản phẩm); Bến Tre (4 sản phẩm); Phú Thọ, Đồng Tháp, Nghệ An và Quảng Ninh – mỗi địa phương có 1 sản phẩm OCOP 5 sao.
Sản phẩm đạt “Sản phẩm OCOP cấp Quốc gia” được Bộ NN&PTNT cấp Giấy chứng nhận sản phẩm OCOP cấp Quốc gia; được sử dụng biểu trưng và tem OCOP quốc gia trên bao bì, nhãn mác và các tài liệu giới thiệu, quảng bá về sản phẩm theo quy định. Kết quả phân hạng có giá trị 36 tháng, kể từ ngày công nhận.

Theo Báo Đầu tư

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

All in one
Lên đầu trang