Cần phải bỏ sự hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự phát triển của hợp tác xã kiểu mới
Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW, công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể (KTTT) hiệu lực, hiệu quả hơn. KTTT , hợp tác xã (HTX) phát triển cả về số lượng và chất lượng. Hợp tác xã, tổ hợp tác phát triển cả về lượng và chất, tăng theo từng năm, phát triển khá đồng đều trên khắp các vùng miền, chất lượng hoạt động được nâng lên. Tuy nhiên còn rất nhiều khó khăn, thách thức trong phát triển KTTT, HTX. Cổng thông tin điện tử VCA đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Tiến, Vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban Kinh tế Trung ương xung quanh vấn đề này.
Thưa Ông, sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW, bên cạnh những thành tựu thu được còn rất nhiều khó khăn. Theo Ông chúng ta đang đối mặt với những khó khăn nào?
Ông Nguyễn Văn Tiến: KTTT, HTX đã hỗ trợ cho 8 triệu thành viên, chủ yếu là các hộ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh trên hầu hết các lĩnh vực, trên địa bàn cả nước, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của hộ xã viên, tạo ra số lượng lớn việc làm, đóng góp quan trọng và phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội ở nhiều nơi.
Các HTX từng bước hoạt động đúng bản chất, tập trung hỗ trợ kinh tế hộ thành viên thông qua cung cấp các dịch vụ hoặc việc làm cho thành viên, nhất là HTX nông nghiệp. Quy mô, vốn và các lĩnh vực hoạt động của HTX mới được thành lập được nâng cao. Tuy nhiên, kinh tế tập thể, hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn thách thức, chậm phát triển, một số vấn đề đặt ra là:
(1) Nhận thức chưa đúng, đầy đủ và thống nhất về bản chất HTX, về vị trí vai trò của kinh tế tập thể trong phát triển kinh tế – xã hội đất nước; còn mang nặng mặc cảm với hợp tác xã kiểu cũ, hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự phát triển của HTX kiểu mới; chưa có nghiên cứu lý luận, thực tiễn về phát triển kinh tế tập thể ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù NQTW 5 đã thể hiện tương đối rõ và Luật HTX 2012 đã có quy định khá rõ ràng về bản chất, nguyên tắc hoạt động của HTX, nhưng nhận thức bản chất HTX, bản chất HTX vẫn chưa thống nhất; còn nhầm lẫn, đồng nhất mô hình HTX với mô hình doanh nghiệp; nhầm lẫn giữa lợi ích của HTX với lợi nhuận của doanh nghiệp.
(2) Hệ thống chính sách, một số văn bản ban hành chậm, thiếu đồng bộ, nhất quán, chưa phù hợp với thực tế, một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ HTX không đi vào cuộc sống. Sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước chưa đủ mạnh để thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với khu vực KTTT, HTX được ban hành nhiều, nhưng nguồn lực kèm theo chưa đảm bảo, nguồn vốn tín dụng khó tiếp cận đối với HTX, hộ thành viên bởi những quy định về tín chấp, thế chấp; Quỹ hỗ trợ phát triển HTX tuy đã được bổ sung, nhưng còn hạn hẹp so với nhu cầu về nhu cầu vốn ở khu vực này.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chính sách hỗ trợ, phát triển kinh tế tập thể chưa hiệu quả, thiếu nguồn lực; công tác phối hợp giữa các bộ, ngành về phát triển kinh tế tập thể còn hạn chế. Ở địa phương, chưa quy định rõ và chưa thống nhất cơ quan nào chịu trách nhiệm chính về kinh tế tập thể. Nhiều địa phương chưa quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác hỗ trợ, tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách, pháp luật phát triển kinh tế tập thể của Đảng, Nhà nước; thiếu kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện các Nghị quyết.
(3) Khu vực KTTT, HTX vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém chưa khắc phục được. Tốc độ tăng trưởng chậm, thiếu ổn định, chưa bền vững; tỷ lệ đóng góp vào GDP thấp, chưa đáp ứng được mục tiêu Nghị quyết đề ra. KTTT, HTX phát triển chưa thực sự hiệu quả, chưa phát huy được tiềm năng của HT, nhất là mục tiêu trở thành thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế.
Cương lĩnh 2011 và các nghị quyết của Đảng đề ra vai trò rất cao của kinh tế tập thể trong phát kinh tế: “cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đóng góp ngày càng tăng vào GDP”; “mục tiêu từ nay đến năm 2010 là: đưa kinh tế tập thể thoát khỏi những yếu kém hiện nay, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới có tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong GDP của nền kinh tế”, nhưng thực tế KTTT, HTX đóng góp vào GDP ngày càng giảm, hoạt động kém hiệu quả.
Số lượng thành viên tham gia Tổ hợp tác, hợp tác xã còn thấp (khoảng 8 triệu thành viên). Người dân còn chưa mặt mà, chưa thật tin tưởng, cuốn hút bởi mô hình HTX kiểu mới, do đó chưa huy động được sự tham gia, mở rộng các thành viên vào các hoạt động của HTX. Pháp luật, chính sách về liên kết chậm được hoàn thiện, dẫn đến sự gắn kết lợi ích giữa HTX và thành viên mờ nhạt, tinh thần hợp tác còn bị tâm lý lo ngại cản trở, do đó lợi ích kinh tế trực tiếp do HTX mang lại cho các thành viên chưa nhiều.
Việc liên kết, hợp tác giữa các thành viên trong HTX, giữa HTX với HTX, giữa HTX với doanh nghiệp và với các thành phần kinh tế khác còn ít, hiệu quả chưa cao. Những mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả chậm được tổng kết, hướng dẫn, ban hành thể chế để phát triển. HTX mới thành lập chủ yếu có quy mô nhỏ, thiếu động lực để mở rộng về quy mô, phát triển.
Bên cạnh đó, năng lực nội tại của nhiều hợp tác xã chưa khắc phục được sự yếu kém, do còn thiếu cơ chế, chính sách, hướng dẫn để các loại hình KTTT, HTX có thể huy động nguồn lực, vốn đưa vào hoạt động. Trình độ nhận thức, năng lực và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý HTX tuy có được đào tạo nhưng vẫn còn yếu, còn khoảng cách xa với các loại hình kinh tế khác, do chưa được quan tâm đào tạo bài bản, thực chất.
Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 của ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể đã đề ra nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung một số cơ, chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể. Cụ thể là là gì thưa Ông?
Ông Nguyễn Văn Tiến: Chính sách cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực: Các ngành, các đại phương chủ động xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và nghiệp vụ cho khu vực kinh tế tập thể. Nhà nước hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho hợp tác xã. Ngoài ra, các địa phương cần quan tâm, có chính sách thu hút cán bộ quản lý và khoa học kỹ thuật về làm việc tại hợp tác xã. Các đơn vị kinh tế tập thể căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh và Điều lệ hợp tác xã tự quyết định mức lương các chức danh cán bộ quản lý, mức tiền công trả cho người lao động, thù lao trả cho xã viên hợp tác xã và quyết định các quan hệ phân phối khác trong nội bộ đơn vị.
Cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật được tăng cường về công tác ở hợp tác xã trong một thời gian nhất định được giữ nguyên lương và chế độ bảo hiểm xã hội, lương và 15% bảo hiểm xã hội của cán bộ nói trên do ngân sách nhà nước cấp; được hưởng phụ cấp gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã.
Thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với xã viên hợp tác xã và người lao động làm việc theo hợp đồng, hưởng tiền lương, tiền công quy định tại Bộ luật Lao động; các thành viên khác không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì tạo điều kiện để tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo nhu cầu.
– Chính sách đất đai: Khuyến khích và tạo điều kiện cho hộ nông dân “dồn điền, đổi thửa”, tập trung ruộng đất theo chính sách của Nhà nước để phát triển sản xuất hàng hóa, mở mang ngành nghề. Nhà nước giao đất không thu tiền và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hợp tác xã nông nghiệp xây dựng trụ sở, làm cơ sở sản xuất, kinh doanh… Hợp tác xã phi nông nghiệp được thuê đất dài hạn, giảm mức nộp tiền thuê đất trong một thời gian nhất định và được nộp tiền thuê đất nhiều lần. Đất do hợp tác xã đầu tư để khai phá, tôn tạo, khi Nhà nước chuyển sang chế độ cho thuê, cần trả lại chi phí khai phá cho hợp tác xã.
– Chính sách tài chính – tín dụng: Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền đến năm 2010 cho hộ nông dân. Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong một thời gian nhất định đối với hợp tác xã tác nông, lâm, diêm, ngư nghiệp mới chuyển đổi hoặc mới thành lập. Thực hiện chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp.
Khuyến khích nhiều hình thức góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sử dụng đất… của thành viên để tăng thêm vốn kinh doanh cho hợp tác xã. Công khai hóa những đóng góp của thành viên. Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của hợp tác xã nông nghiệp từ năm 1996 về trước; tiếp tục xem xét để xử lý nợ tồn đọng cho hợp tác xã phi nông nghiệp. Giao những tài sản của hợp tác xã cũ và tài sản của Nhà nước giao cho hợp tác xã sử dụng trước đây cho hợp tác xã chuyển đổi để làm vốn không chia thuộc sở hữu chung.
Hợp tác xã được vay vốn bình đẳng như các thành phần kinh tế khác; các tổ chức tín dụng tăng mức cho vay và tạo thuận lợi về thủ tục vay vốn đối với hộ và các tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; các hợp tác xã được thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và vay theo dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Hợp tác xã được vay vốn từ các chương trình, dự án quốc gia và các tổ chức phi chính phủ, được làm chủ một số dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ bảo lãnh tín dụng cho kinh tế tập thể. Ngân hàng nhà nước tăng cường quản lý và củng cố hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân hiện có và phát triển mới ở những nơi có đủ điều kiện; hướng dẫn nghiệp vụ và chỉ đạo chặt chẽ đối với hoạt động tín dụng nội bộ trong hợp tác xã.
– Chính sách hỗ trợ về khoa học và công nghệ: Nhà nước hỗ trợ kinh tế tập thể ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ, nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản, chế biến, công nghệ thông tin…, qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công. Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề… ở nông thôn; hướng dẫn và giúp đỡ các tổ hợp tác, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, đổi mới công nghệ đa dạng hóa sản phẩm, hạ giá thành, nâng sức cạnh tranh.
– Chính sách hỗ trợ tiếp thị và mở rộng thị trường: Các ngành, các địa phương, các hiệp hội ngành nghề và liên minh hợp tác xã hỗ trợ xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường cho các hộ, tổ hợp tác và hợp tác xã; tổ chức các hình thức giới thiệu sản phẩm ở trong và ngoài nước phù hợp với trình độ hiện tại và xu thế phát triển của kinh tế tập thể.
Thực hiện rộng rãi việc ký kết hợp đồng trực tiếp giữa doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp với nông dân qua các hợp tác xã. Các doanh nghiệp cung ứng vật tư, phân bón, thức ăn chăn nuôi, hướng dẫn quy trình kỹ thuật và thu mua sản phẩm cho hợp tác xã theo các hợp đồng dài hạn đối với những sản phẩm có khối lượng lớn; Nhà nước có chế độ ưu đãi các doanh nghiệp này. Khuyến khích nông dân và hợp tác xã sản xuất nguyên liệu mua cổ phần, trở thành cổ đông của các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
– Chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước, công trình thủy lợi…, trước hết cho phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển sản xuất hàng hóa lớn, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển kinh tế tập thể.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Luật Hợp tác xã 2012 đã quy định 8 nhóm chính sách chung hỗ trợ phát triển hợp tác xã, gồm: Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực; hỗ trợ xúc tiến thương mại; hỗ trợ ứng dụng khoa học và công nghệ; hỗ trợ tiếp cận vốn, quỹ phát triển HTX; hỗ trợ tham gia chương trình mục tiêu Quốc gia, chương trình phát triển kinh tế – xã hội; hỗ trợ thành lập mới; ưu đãi thuế; ưu đãi thành lập hợp tác xã. Hợp tác xã trong nông nghiệp có 5 nhóm chính sách riêng hỗ trợ phát triển, gồm: Hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng; giao đất, cho thuê đất; ưu đãi về tín dụng; hỗ trợ vốn, giống và chế biến sản phẩm.
Tại Hội thảo “Góp ý vào các chính sách hỗ trợ phát triển KTTT, HTX trong NQ Trung ương V khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT” ngày 23/11 do Viện Phát triển Kinh tế hợp tác (Liên minh Hợp tác xã Việt Nam) tổ chức, có rất nhiều ý kiến góp ý. Vậy với cá nhân ông đã có những kiến nghị gì cho vấn đề này?
Ông Nguyễn Văn Tiến: Về quan điểm chỉ đạo, tiếp tục khẳng định KTTT ngày càng phát triển là xu thế tất yếu; là thành phần kinh tế quan trọng cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển KTTT phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, và phải xuất phát từ nhu cầu của thành viên, tôn trọng giá trị, nguyên tắc hoạt động của tổ chức hợp tác xã và phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế – xã hội của từng địa phương và từng vùng.
Phát triển KTTT với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là HTX, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các HTX, liên kết rộng rãi các hộ nông dân, người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; bảo đảm lợi ích của thành viên. Khuyến khích phát triển HTX một cách vững chắc, hiệu quả, bảo đảm vai trò làm chủ thực sự của thành viên và mang lại lợi ích cho thành viên.
Xây dựng chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển KTTT thiết thực, hiệu quả, bố trí đủ nguồn lực thực hiện. Chuyển mạnh chính sách hỗ trợ, phát triển kinh tế tập thể theo nhiệm vụ sang hỗ trợ đầu ra, chủ yếu thông qua chính sách thuế, phí; hỗ trợ theo chuỗi giá trị, phát triển thành viên và quy mô của hợp tác xã. Ưu đãi các hợp tác xã là trong nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ, trang trại phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, trật tự xã hội ở nông thôn.
Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của KTTT là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Nhà nước tạo khung pháp luật, ban hành các chính sách hỗ trợ, đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế, chính trị và xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, phối hợp chặt chẽ trong tổ chức triển khai thực hiện. Phát huy vai trò của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong phát triển KTTT.
Về mục tiêu, sức mạnh của kinh tế tập thể, hợp tác xã là ở sự hợp tác, liên kết của thành viên theo chiều ngang (hợp tác giữa các thành viên) và theo chiều dọc theo chuỗi giá trị (hợp tác giữa thành viên với các hợp tác xã, doanh nghiệp) số lượng thành viên tham gia. Vì vậy, chính sách hỗ trợ cần khuyến khích phát triển thành viên, quy mô của hợp tác xã để nâng về số lượng thành viên tham gia kinh tế tập thể, hợp tác xã (tỷ lệ thành viên/dân số, tỷ lệ thành viên bình quân/HTX); sự hợp tác, liên kết của thành viên thông qua việc cung ứng dịch vụ của hợp tác xã và sử dụng dịch vụ của thành viên.
Về nhiệm vụ, giải pháp, xác định rõ rõ bản chất, nguyên tắc hoạt động của HTX. Kinh tế tập thể phát triển với mục đích chính là mang lại lợi ích cho thành viên góp phần rất quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế của thành viên (cá thể, hộ gia đình, doanh nghiệp và các tổ chức khác…), nhằm mang lại lợi ích cho thành viên, góp rất quan trọng vào giảm nghèo, nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của số đông thành viên, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh chung của toàn nền kinh tế; tăng cường đoàn kết giữa các thành viên và ngày càng lan tỏa ra xã hội; nâng cao vị thế chính trị, xã hội của đông đảo thành viên và người lao động với tư cách là những người làm chủ.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật Hợp tác xã, như xử lý công nợ, tỷ lệ vốn góp, thủ tục giải thể bắt buộc và chuyển đổi sang loại hình tổ chức khác, chế tài xử lý vi phạm Luật,.. cho phù hợp với xu thế quốc tế về phát triển hợp tác xã và tình hình thực tế của Việt Nam trong mỗi giai đoạn phát triển.
Chính sách ưu đãi, hỗ trợ HTX phải tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; Cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Ưu tiên phát triển HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu.
– Khuyến khích xây dựng mô hình HTX và tổng kết mô hình HTX hoạt động hiệu quả, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho thành viên; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Tôn trọng quyền tự do hoạt động kinh tế, kinh doanh của người dân, hợp tác xã, giảm tối đa sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự giác thực hiện quy định pháp luật của HTX. Xây dựng các quy định về việc kiểm tra, giám sát hoạt động của hợp tác xã đảm bảo hợp tác xã hoạt động minh bạch, hiệu quả, đúng pháp luật.
Xin cảm ơn Ông!