Mô hình ngoài thành phố

Cùng với tôm khô, cua biển, cây bồn bồn mọc hoang và con ba khía lấm bùn cũng góp phần làm nên danh tiếng của xứ Cà Mau; nhiều năm gần đây, chính quyền địa phương các huyện Cái Nước, Đầm Dơi đã nỗ lực đưa sản vật quê mình thành những sản phẩm OCOP chất lượng, uy tín, đợi đến ngày Cà Mau “thay áo mới”.

 

Biến cây mọc hoang thành đặc sản

Là một loại cây dại, mọc hoang và phát triển tự nhiên không cần dùng đến phân bón, hóa chất, bồn bồn nhanh chóng được thị trường chấp nhận. Từ khi “tiếng lành đồn xa” về độ ngon và sạch, người dân 2 huyện Đầm Dơi và Cái Nước tỉnh Cà Mau bắt tay vào xây dựng vùng trồng và thương hiệu cho cây bồn bồn; hiện tại, loại cây này được trồng xen với lúa, tôm, bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 11 hàng năm, trên cả các cánh đồng nước ngọt, lợ, phèn chua.

Nông dân Nguyễn Minh Hòa, ngụ tại xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước, người có nhiều năm gắn bó với cây bồn bồn nhớ lại, vào những năm 2002 – 2003, người dân huyện Cái Nước đi nhổ từng cây bồn bồn về bán cho khách đi đường, ban đầu, bồn bồn chỉ có giá khoảng 3.500 đồng/kg, ít người biết ăn nên đầu ra hạn chế. Tuy nhiên, thân bồn bồn vừa sạch vừa ngon, vừa giòn vừa ngọt đã nhanh chóng được người dân khắp nơi ưa chuộng. Đến nay, dưa bồn bồn đã có giá cao gấp chục lần, đầu ra ổn định có nhãn hiệu được công nhận.

Theo Chủ tịch Hội Nông dân huyện Cái Nước Nguyễn Văn Đức, những năm gần đây, việc trồng bồn bồn đem lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân với khoảng 100 – 120 triệu đồng/ha/năm. Đặc biệt, từ năm 2017, nhãn hiệu bồn bồn Cái Nước được Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam công nhận nhãn hiệu tập thể. Từ đó, nhu cầu  tiêu thụ bồn bồn tăng lên cao. Hiện nay, Hội Nông dân huyện đã tham mưu UBND huyện Cái Nước xây dựng dự án nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả từ cây bồn bồn với diện tích 154ha kết hợp với nuôi tôm càng xanh để tăng thêm nguồn thu nhập cho người dân. Đồng thời, có phương án hỗ trợ hợp tác xã trong việc đầu tư cơ sở sản xuất, trang thiết bị, quy trình kỹ thuật chế biến, bảo quản, đóng gói sản phẩm, đăng ký nhãn hiệu.

Đại dịch qua đi, cùng với nỗ lực phục hồi và phát triển du lịch của chính quyền tỉnh, khách đến Cà Mau tăng vọt, các món ăn chế biến từ bồn bồn như gỏi bồn bồn, bồn bồn xào tôm, bồn bồn nấu canh cá rô, dưa bồn bồn…  là sự lựa chọn ưu tiên của du khách khi đến vùng đất này nên nhiều người nắm bắt cơ hội chuyển từ bán lẻ ven đường sang đăng ký hộ kinh doanh, đăng ký thực hiện chương trình OCOP, thành lập hợp tác xã vừa giúp nông dân có đầu ra ổn định, giữ giá vừa vươn lên làm giàu, phát triển bản thân.

Hiện nay, hơn 150 hộ dân ở Cái Nước trồng bồn bồn, với 154ha tập trung sản xuất ở 4 xã được sử dụng nhãn hiệu tập thể, khẳng định giá trị của nhãn hiệu tập thể: “Sản phẩm bồn bồn Cái Nước – Cà Mau”. Nhiều hợp tác xã chế biến dưa bồn bồn được cấp chứng nhận sản phẩm OCOP 3 sao, không chỉ nổi tiếng trên địa bàn tỉnh, mà còn được các quán ăn, nhà hàng, khách sạn và các siêu thị Co.opmart trên cả nước lựa chọn, đưa vào hệ thống cung cấp cho người tiêu dùng.

Hợp tác xã Ba khía Đầm Dơi nỗ lực đưa con ba khía đi khắp cả nước

Xây dựng thương hiệu quê hương

Năm 2013, chị Trần Thị Xa – hiện là Chủ tịch HĐQT, Giám đốc Hợp tác xã Ba khía Đầm Dơi cùng chồng là kỹ sư thủy sản Nguyễn Văn Miên tình nguyện về huyện Đầm Dơi công tác theo đề án trí thức trẻ về nông thôn. Gắn bó với nông dân, nông thôn, vợ chồng chị Xa luôn ấp ủ về việc tạo chỗ đứng cho ba khía muối của quê nhà.

Do phù hợp với thổ nhưỡng nên ba khía ở Cà Mau sinh sôi phát triển không ngừng, cũng chính vì thế, trước đây ba khía là một trong những món thức ăn của người nghèo. Tuy nhiên, ăn rồi mới biết, ba khía tươi, ba khía làm mắm, ba khía muối ngon không kém gì cua biển. Nhận biết được giá trị của loại đặc sản này, cách đây 6 năm, chị Xa bắt đầu dành dụm vốn liếng, cùng chồng thực hiện xây dựng thương hiệu Ba khía Đầm Dơi. Ban đầu mỗi tuần chị chỉ bán được 30kg ba khía thành phẩm, đến năm 2019 con số này đã tăng lên 1,5 tấn thành phẩm thu lợi nhuận trên 100 triệu đồng. Anh Miên – chồng chị Xa cho biết: thời gian gần đây, mỗi ngày cơ sở sản xuất 200kg ba khía thành phẩm, đáp ứng đủ số lượng đơn đặt hàng của khách; hiện tại cơ sở có hơn 20 nhân viên làm việc”.

Năm 2019, mỗi tháng cơ sở của anh chị cho ra lò 1,5 tấn sản phẩm, thu lợi 250 triệu đồng mỗi năm. Qua năm 2020, công suất, lợi nhuận tăng gấp đôi. Hiện, vợ chồng anh chị đã đầu tư hơn 800 triệu đồng nâng quy mô sản xuất với sản lượng 5 – 10 tấn sản phẩm mỗi tháng, 10 lao động thường xuyên làm việc tại cơ sở thu nhập từ 4 – 5 triệu đồng/tháng. Hiện tại, HTX Ba khía Đầm Dơi có những sản phẩm chủ lực từ ba khía như: Ba khía muối, ba khía muối trộn sẵn, riêu ba khía, ba khía tươi cấp đông và ba khía cốm (ba khía đang trong giai đoạn lột vỏ) cấp đông, ba khía rang me…

Năm 2020, dự án “Ba khía Đầm Dơi – xây dựng thương hiệu sản phẩm quê hương” của chị Trần Thị Xa đã xuất sắc vượt qua 476 dự án khác và đoạt giải Nhất cuộc thi do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – Chi nhánh TP. Cần Thơ và Mạng lưới khởi nghiệp đồng bằng sông Cửu Long tổ chức.

Ngoài ra, sản phẩm ba khía muối của HTX Ba khía Đầm Dơi còn được Cục Công thương địa phương (Bộ Công thương) công nhận vào top 200 sản phẩm nông thôn tiêu biểu khu vực phía Nam 2022.

Theo Chủ tịch UBND huyện Đầm Dơi Lê Minh Hiền, HTX Ba khía Ðầm Dơi là một trong những mô hình tiêu biểu của phong trào khởi nghiệp về đặc sản Cà Mau nói chung và huyện Đầm Dơi nói riêng. Hoan nghênh HTX Ba khía Đầm Dơi bởi tính sáng tạo và linh hoạt trong cách quảng bá hình ảnh sản phẩm ba khía muối duy nhất đạt OCOP 3 sao của tỉnh Cà Mau, Chủ tịch huyện Đầm Dơi cho biết, để nâng cao chất lượng, thương hiệu sản phẩm OCOP, năm 2023 huyện Đầm Dơi phấn đấu có thêm 6 sản phẩm tham gia nâng hạng từ 3 sao lên 4 sao. Trong đó, HTX Ba khía Đầm Dơi có 4 sản phẩm tham gia nâng hạng như: ba khía muối, riêu ba khía, ba khía trộn sẵn và mắm tôm chua ngọt.

Theo vca.org.vn

Dệt thổ cẩm Hoa Tiến là sản phẩm OCOP của Nghệ An, nhưng vốn quý ấy đã có lúc tưởng chừng mai một vì sự cạnh tranh từ sản phẩm rẻ tiền Trung Quốc.
Được sáng lập từ năm 2010, Hợp tác xã làng nghề thổ cẩm Hoa Tiến (bản Hoa Tiến, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An) là tâm huyết của bà Sầm Thị Bích nhằm lưu giữ và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của người Thái, đồng thời góp phần tăng thu nhập cho phụ nữ nơi đây.
Đã có lúc, hoạt động của HTX Hoa Tiến èo uột vì phải cạnh tranh với sản phẩm từ Trung Quốc. Nhưng với sự tâm huyết và mong muốn phát triển nghề dệt truyền thống, Ban Giám đốc HTX đã nghiên cứu và nhận ra nguyên nhân khiến Hoa Tiến ngày một khó là do sự lạc hậu trong sản xuất.
Công cụ sản xuất quá thô sơ, nguồn nguyên liệu sợi không bảo đảm, mẫu mã đơn giản, kém hấp dẫn, màu sắc của sản phẩm không bền và thiếu sự đồng đều…
Những người đứng đầu HTX đã liên kết với chính quyền địa phương, xin hỗ trợ vốn và vay thêm vốn ngân hàng để phát triển sản xuất. HTX đã tập huấn để các hộ dân nắm được kỹ thuật trồng và thu hoạch dâu đúng cách…
Các thành viên của HTX Hoa Tiến đang dệt thổ cẩm.
Thay vì nhuộm thủ công, HTX đầu tư máy móc và chuyển giao công nghệ nhuộm cho thành viên nhằm giúp nâng cao chất lượng nhuộm tự nhiên cho sản phẩm. Chính vì vậy, sản phẩm của HTX giữ được độ bền đẹp. Đặc biệt, với phương pháp này, nước thải sau khi dệt nhuộm hầu như không có chất độc hại với môi trường và sức khỏe con người.
Không dừng lại ở đó, HTX còn chú trọng tạo ra mẫu mã mới, sản phẩm mới phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. HTX tham gia hội chợ về thủ công mỹ nghệ trong cả nước để kết nối với doanh nghiệp, tạo đầu ra cho sản phẩm.
Đến nay, HTX đã xây dựng được chuỗi giá trị thổ cẩm bền vững, thu hút được nhiều dự án, doanh nghiệp trong và ngoài nước hỗ trợ phát triển sản xuất. Sản phẩm của HTX không chỉ bán trong nước mà còn được xuất khẩu ra nước ngoài với số lượng lớn.
Mang thổ cẩm vươn xa
 
Hoa Tiến được mệnh danh là một trong những cái nôi dệt thêu thổ cẩm nổi tiếng và lâu đời bậc nhất của người Thái ở tỉnh Nghệ An. Các cô gái Thái được mẹ truyền cho nghề dệt vải. Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải, thêu thùa vốn là các công việc mà họ đều hết sức thuần thục như một bảo chứng cho sự trưởng thành.
Họ thường tự tay làm những chiếc váy, bộ chăn, đệm, khăn piêu…phục vụ bản thân và gia đình.
Chị Sầm Thị Tình chia sẻ, chị Tình đã tìm cách quảng bá sản phẩm thổ cẩm với những giá trị văn hóa truyền thống tới thị trường trong nước và quốc tế bằng việc mang sản phẩm của HTX Hoa Tiến lên nhiều kênh online, giới thiệu đến với khách hàng trong và ngoài nước.
Năm 2015, theo gương mẹ, chị mở cửa hàng thổ cẩm tại Hà Nội, với tên giao dịch tiếng Anh: Hoa Tien Brocade.
Đây là bước khởi nghiệp quan trọng quảng bá sản phẩm truyền thống của quê hương và tìm đầu ra cho sản phẩm, giúp bà con có thêm thu nhập trang trải cuộc sống. Từ đó, thương hiệu thổ cẩm Hoa Tiến vươn xa hơn thông qua các hoạt động du lịch, thương mại, liên kết với các sản phẩm dệt thổ cẩm truyền thống từ HTX và các dân tộc ở nhiều địa phương khác.
Không chỉ dừng lại ở thị trường trong nước, tháng 9/2022, chị Sầm Thị Tình đăng ký tham gia trưng bày một gian hàng giới thiệu sản phẩm thổ cẩm bên lề Hội thảo nghề dệt may truyền thống các nước ASEAN (TTAS), do nước chủ nhà Malaysia đăng cai, tổ chức tại thủ đô Putrajaya. Tại đây, gian hàng Hoa Tiến đã bán được nhiều sản phẩm.
Cũng từ đây, các sản phẩm thổ cẩm Hoa Tiến đã bắt đầu “xuất ngoại” tới nhiều nơi trên thế giới.
Hiện nay, sản phẩm thổ cẩm mang thương hiệu Hoa Tien Brocade đã có mặt ở nhiều thành phố lớn trong nước và được bán ở các nước Pháp, Đức, Nhật, Lào…
Thu nhập bình quân của chị em trong HTX từ 1,5 – 2,5 triệu đồng/tháng. Doanh thu ước tính cả năm của HTX là 500 triệu đồng.

Theo vca.org.vn

Thời gian qua, Hợp tác xã Dịch vụ và Phát triển nông lâm nghiệp nông thôn Tùng Dương, xã Mỹ Hòa, huyện Tân Lạc (HTX Tùng Dương) triển khai hiệu quả mô hình “Chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp”, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn.
 
Người dân xã Mỹ Hòa (Tân Lạc) nâng cao thu nhập từ mô hình "Chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp”.
Ông Đinh Long Dương, Giám đốc HTX chia sẻ: HTX hiện có 30 thành viên, trong đó 25 thành viên trong hệ thống và 5 thành viên liên kết. HTX thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng đáp ứng nhu cầu thị trường, chuyển đổi từ cây trồng kém hiệu quả sang cây có giá trị kinh tế cao hơn; chú trọng phát triển vùng nguyên liệu xuất khẩu, đặc biệt là vùng nguyên liệu mía của tỉnh. Đồng thời, tìm đầu ra ổn định cho các sản phẩm nông nghiệp của HTX và các hộ dân tham gia hợp tác. HTX đã xây dựng mô hình “Chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp” từ năm 2019.
 
Đến nay, HTX Tùng Dương đã xây dựng thành công 3 mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp với với các đối tác. Trong đó có “Chuỗi cung ứng liên kết sản xuất và tiêu thụ ngô sinh khối”. Nắm bắt nhu cầu thị trường, với sự hỗ trợ của Phòng NN&PTNT huyện Tân Lạc, vụ ngô 2019 – 2020, HTX đã ký kết sản xuất và tiêu thụ ngô sinh khối với Công ty T&T 159. Diện tích sản xuất thí điểm ở vụ ngô này là 16 ha tại xã Mỹ Hòa. Kết quả, tổng sản lượng đã đạt 560 tấn/vụ, tổng doanh thu đạt 672 triệu đồng; trung bình đạt 42 triệu đồng/ha/vụ, hiệu quả kinh tế tăng 1,5 lần so với trồng ngô truyền thống nhưng thời gia thu hoạch giảm 1/3. Sản phẩm của HTX đã được các công ty chăn nuôi và các trại bò trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận biết đến.
 
Từ sự thành công của mô hình, từ năm 2021 đến nay, HTX đã ký hợp đồng cung ứng tiêu thụ sản phẩm ngô sinh khối thường xuyên với Công ty T&T 159; Công ty Cổ phần Fai Group Lạc Thủy; Công ty Cổ phần Bò sữa Mộc Châu – Sơn La… Năm 2021 đã sản xuất, tiêu thụ trên 3.000 tấn, doanh thu đạt 3 tỷ đồng; năm 2022 sản xuất, tiêu thụ trên 4.500 tấn, doanh thu đạt 4,5 tỷ đồng và 6 tháng năm 2023 sản xuất, tiêu thụ trên 1.300 tấn, doanh thu đạt trên 1,2 tỷ đồng. Mô hình tạo việc làm thường xuyên và thu nhập ổn định cho các hộ tham gia vào chuỗi liên kết.
 
Đối với chuỗi liên kết sản xuất mía, năm 2022, HTX ký hợp đồng với Công ty TNHH Tiến Ngân và Công ty Cổ phần Nông nghiệp hữu cơ FUSA xuất khẩu 49 tấn mía trắng đã qua sơ chế sang thị trường EU. Năm 2023, HTX xây dựng vùng nguyên liệu với quy mô khoảng 20 ha. Được sự hỗ trợ của Trung tâm Ứng dụng khoa học công nghệ thông tin tỉnh, HTX xây dựng 2 vùng bảo tồn gen mía tím và mía trắng F1-34 bằng phương pháp nuôi cấy mô. Đến năm 2023 có 15 ha mía giống F1 cho vùng nguyên liệu 150 ha của huyện Tân Lạc.
 
Với những kết quả đã đạt được, năm 2020 HTX được Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh tặng giấy khen và đạt danh hiệu HTX điển hình tiên tiến cấp tỉnh. Năm 2021, HTX được tặng giấy khen của Sở NN&PTNT với thành tích xuất sắc trong liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trồng trọt. Đặc biệt, với việc triển khai thực hiện thành công mô hình “Chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp”, đặc biệt là chuỗi cung ứng liên kết sản xuất và tiêu thụ ngô sinh khối đã giúp hàng trăm hộ dân chuyển từ ngô lấy hạt sang ngô sinh khối đem lại doanh thu 3 – 4 tỷ đồng/năm, lợi nhuận sau khi trừ chi phí đạt từ 2 – 3 tỷ đồng. Mô hình của HTX đã góp phần bảo tồn gen mía tím, mía trắng F1-34 và cung cấp giống chất lượng cao cho vùng mía nguyên liệu xuất khẩu của huyện Tân Lạc nói riêng và tỉnh nói chung. Từ đó, tạo việc làm và thu nhập ổn định 4 – 5 triệu đồng/tháng cho hàng trăm lao động, trong đó lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo chiếm 30%. Hiện nay, chuỗi cung ứng liên kết sản xuất và tiêu thụ ngô sinh khối đã lan tỏa ra các huyện Cao Phong 100 ha, Lạc Sơn 40 ha, Yên Thủy 28 ha, Kim Bôi 10 ha,.. góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhiều cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh.
 

Theo vca.org.vn

Việc ứng dụng khoa học công nghệ vừa giúp các HTX giảm chi phí nhân công, nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, gia tăng thu nhập cho thành viên, người lao động.

HTX Trường Anh, xã Hưng Đạo (thành phố Cao Bằng) là một trong những đơn vị đi đầu trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở tỉnh miền núi Cao Bằng.

Nghỉ việc nhà nước trồng dâu tây

Với quyết tâm vượt qua khó khăn từ những ngày đầu lập nghiệp, chị Đoàn Thu Trà, dân tộc Tày, Giám đốc HTX Trường Anh cho biết, năm 2013, chị tốt nghiệp Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam) với tấm bằng loại khá. Trở về quê hương, chị Trà dự thi công chức và được tuyển dụng vào làm việc tại UBND xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng với công việc chuyên môn là địa chính – nông nghiệp – xây dựng – môi trường. Cùng thời gian đó, chị Trà tiếp tục thi và học lên thạc sỹ ngành Khoa học cây trồng.

Sinh ra và lớn lên ở vùng quê gắn bó với nghề nông, đất đai phì nhiêu nhưng người dân bao năm qua vẫn chưa tìm ra cách làm giàu từ nông nghiệp. Chính điều đó đã thôi thúc chị cần phải bứt phá vươn lên. Vậy là chị đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng mới và áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.

Dưa của HTX Trường Anh được trồng trong nhà lưới, nhà màng cho quả có mùi thơm, giòn, vị ngọt thanh, an toàn cho người tiêu dùng, thị trường đầu ra trong tỉnh ổn định.

Qua nghiên cứu thực nghiệm ở Trung tâm Giống cây trồng Trâu Quỳ (Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Gia Lâm, Hà Nội), chị mạnh dạn tìm các loại giống cây ăn quả chất lượng cao như bưởi, cam, chanh, xoài, lê, dưa lưới… về cho bà con ở quê trồng thử nghiệm. Chị còn hướng dẫn người mua cách trồng, chăm sóc, bón phân nào để cây cho ra nhiều hoa, kết nhiều quả và khi quả chín không những to, mọng mà còn cho vị ngon hấp dẫn.

Với niềm đam mê với cây dâu tây, chị Trà nhờ bạn ở Hà Giang gửi cho 100 cây dâu tây giống về trồng thử nghiệm. Vụ đầu dâu tây cho quả bé, nhưng có vị ngọt hấp dẫn. Dù chưa đem lại hiệu quả như mong muốn, nhưng đã cho thấy khí hậu ở Cao Bằng cũng phù hợp, thích nghi với sự phát triển của dâu tây như Đà Lạt, Sa Pa, Mộc Châu…

Lần thử nghiệm tiếp theo, chị Trà nhờ người bạn ở Sơn La gửi cho 65 cây dâu tây giống lấy ở Mộc Châu. Lần này đem về trồng trong chậu nhựa, áp dụng chế độ chăm sóc tốt nên đã cho thu hoạch với năng suất, chất lượng cao hơn hẳn. Từ đó, Trà đã ấp ủ thành lập trang trại trồng dâu tây trong nhà kính tại địa phương. Để có thời gian, Trà đã quyết định xin thôi việc nhà nước để dồn toàn bộ thời gian nghiên cứu thành lập dự án của mình.

Tiên phong làm nông nghiệp công nghệ cao

Năm 2017, với số tiền tích góp trong quá trình đi làm, cùng với việc bán các loại cây giống, chị Trà có được một số vốn, đồng thời mạnh dạn vay thêm 50 triệu đồng để thực hiện ước mơ của mình.

Vậy là chị đầu tư xây dựng hệ thống nhà màng diện tích 500 m2 với tổng chi phí trên 100 triệu đồng để trồng dâu tây và trồng thêm hơn 1.000 m2 ngoài trời. Việc trồng dâu tây được tuân thủ nghiêm ngặt theo quy trình sản xuất sạch, công nghệ cao, sử dụng phân hữu cơ tạo môi trường cho trái dâu phát triển thuận lợi, đem lại năng suất vượt trội… Các giống dâu tây đem về trồng chủ yếu là giống New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản…

Do áp dụng đúng quy trình kỹ thuật công nghệ cao, cây dâu tây sinh trưởng, phát triển tốt, giá bán tại vườn bình quân từ 250 – 300 nghìn đồng/kg, nếu chọn lọc quả to, đẹp và đóng hộp giá 350 – 400 nghìn đồng/kg. Với diện tích 1.500 m2, bước đầu cho thu nhập trên 300 triệu đồng.

 

Từ hiệu quả ban đầu, năm 2018, chị Trà tiếp tục đầu tư hơn 250 triệu đồng xây dựng thêm hơn 1.000 m2 nhà lưới, nâng diện tích nhà lưới lên hơn 1.500 m2 để trồng dâu tây và trồng 3.000 m2 dâu tây ngoài trời.

Cùng với dâu tây, chị Trà triển khai trồng 7.000 gốc hoa hồng các loại với diện tích 1 ha. Sau 2 năm chăm sóc đúng kỹ thuật, vườn hoa hồng phát triển tốt, hoa đẹp, nhân được nhiều cây con, giá bán từ vài trăm nghìn đồng đến vài triệu đồng/gốc. Chị còn đầu tư cả máy chế biến các loại sản phẩm từ hoa hồng, đó là nước hoa hồng, trà hoa hồng và chế biến luôn các loại hoa quả sấy khô.

Để hoạt động sản xuất, kinh doanh đi vào quy củ, có quy mô lớn, tháng 8/2019, chị Trà cùng 8 hộ gia đình khác đứng ra thành lập HTX nông nghiệp Trường Anh chuyên về trồng rau, đậu các loại, trồng hoa, cây ăn quả, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gia cầm…

Cuối năm 2020, HTX đã đầu tư thêm hơn 1 tỷ đồng để làm 6.000 m2 nhà màng. Tận dụng thời gian chưa vào vụ dâu tây, chị Trà trồng các loại dưa như: dưa lê Kim Hân, dưa lưới, dưa lê siêu ngọt, dưa lê Hàn Quốc… Dưa được trồng áp dụng theo quy trình VietGAP, đảm bảo an toàn, chất lượng tốt. Dưa được trồng gối vụ liên tục, cứ khoảng 70 ngày cho thu hoạch một lứa.

Chị Trà chia sẻ, thời gian đầu, do chưa có kinh nghiệm, kiến thức về trồng dâu tây nên gặp khá nhiều khó khăn. Ở đâu có mô hình trồng dâu tây hiệu quả là HTX cử cán bộ, người lao động đến học hỏi, chụp ảnh chi tiết để về học tập và làm theo, giúp giảm bớt chi phí. Ngoài ra, chị Trà còn thường xuyên tìm đọc sách nông nghiệp, tài liệu trên Internet để có thêm kinh nghiệm về trồng dâu tây, hoa hồng.

“Khó khăn lớn nhất để triển khai dự án vẫn là nguồn vốn. Thấy mình có ý tưởng thay đổi cơ cấu cây trồng ở địa phương nên các cấp chính quyền sẵn sàng giúp đỡ như hỗ trợ kinh phí làm nhà kính từ Quỹ Phát triển kinh tế, xã hội của thành phố Cao Bằng”, chị Trà nói.

Bên cạnh đó là nguồn vốn vay của Liên minh HTX, Hội Nông dân tỉnh, vay ngân hàng để mua sắm trang thiết bị như hệ thống nhà kính làm mát hiện đại, nhập và lắp đặt hệ thống tưới tiêu thông minh, mua máy chế biến sản phẩm từ hoa hồng và chế biến hoa quả, mua máy cày và ô tô chở hàng. Tổng chi phi đầu tư cho dự án mấy năm qua cũng lên đến vài tỷ đồng.

Hiện nay, quy mô sản xuất của HTX Trường Anh khoảng 4 ha, trong đó có 7.500 m2 hệ thống nhà màng chuyên trồng dâu tây, các loại dưa. Sản phẩm dâu tây của HTX đã được chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGAP, được chứng nhận sản phẩm đạt OCOP 3 sao.

HTX còn tạo việc làm thường xuyên cho 4 lao động địa phương và khoảng 20 lao động thời vụ. Vườn dâu tây, dưa các loại, hoa hồng thời của HTX còn là điểm đến để du khách chụp ảnh, trải nghiệm hái quả tại vườn. Mỗi năm, trừ chi phí, HTX thu lãi gần 1 tỷ đồng.

Từ thành công bước đầu của HTX Trường Anh, nhiều cá nhân, doanh nghiệp cũng bắt đầu mạnh dạn đầu tư vào phát triển nông nghiệp hữu cơ tại nhiều địa phương, góp phần phát triển du lịch kết hợp nông nghiệp hữu cơ tại tỉnh Cao Bằng.

Theo vca.org.vn

Từ hoạt động hiệu quả của HTX Nông dược và Dịch vụ tổng hợp An Toàn hay HTX nông nghiệp hữu cơ Agribio đang mở ra hướng sản xuất mới, tạo công ăn việc làm, mang lại thu nhập tốt, có cơ hội thoát nghèo cho đồng bào thiểu số miền núi ở tỉnh Bình Định trong việc trồng, chế biến các loại cây dược liệu, thảo mộc.

Trong tháng 10/2023, tại HTX Nông dược và Dịch vụ tổng hợp An Toàn ở xã An Toàn (huyện An Lão, tỉnh Bình Định), Sở Công Thương tỉnh Bình Định đã tập huấn cho các thành viên, đồng bào thiểu số miền núi về kỹ năng tiếp cận thị trường và nâng cao năng lực xúc tiến thương mại.

Tại đây, các thành viên HTX và đồng bào thiểu số được truyền đạt về thị trường hiện nay, năng lực xúc tiến thương mại, kỹ năng tiếp cận thị trường của HTX.

Biến tiềm năng trồng dược liệu thành thực tế

HTX Nông dược và Dịch vụ tổng hợp An Toàn hiện có 32 hộ dân (trong đó có đồng bào thiểu số Bana) tham gia liên kết sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thảo mộc, dược liệu để HTX gom mua và chế biến sâu.

Hướng đi của HTX Nông dược và Dịch vụ tổng hợp An Toàn bước đầu ghi nhận những kết quả khả quan trong việc biến tiềm năng trồng dược liệu thành thực tế.

Không chỉ được tập huấn về kỹ năng phát triển thị trường như nêu trên, các hộ tham gia liên kết còn được HTX hỗ trợ về giống, kỹ thuật và đảm bảo sản phẩm tiêu thụ ổn định. Sản phẩm làm ra từ chuỗi liên kết sản xuất này đã được thị trường đón nhận, được công nhận là sản phẩm OCOP cấp tỉnh hạng 3 sao. Để đảm bảo đầu vào và đầu ra, HTX này đã kết nối được với 130 DN, cơ sở, HTX, các đơn vị trong và ngoài tỉnh Bình Định. 

Hướng đi của HTX Nông dược và Dịch vụ tổng hợp An Toàn bước đầu ghi nhận những kết quả khả quan trong việc biến tiềm năng trồng dược liệu thành thực tế. Nhất là linh hoạt kết hợp các mô hình sản xuất và chế biến nông sản, sản phẩm OCOP phục vụ du lịch và đưa xã An Toàn trở thành một điểm đến cho du khách khi về An Lão. 

HTX này chủ trương phát triển các sản phẩm theo định hướng Đông – Tây y kết hợp, mang đến sự tiện dụng trong cách dùng, phù hợp với thị hiếu và nhu cầu của người dùng. Với mục tiêu phát triển đó, đến nay, HTX đã trồng được 4 ha vùng nguyên liệu, chủ yếu là sâm đương quy, thất diệp nhất chi hoa (còn gọi sâm 7 lá), kim ngân hoa…Các loài cây này đang trong quá trình sinh trưởng, phát triển tốt.

Theo ông Thái Minh Tiến, Giám đốc HTX Nông dược và Dịch vụ tổng hợp An Toàn, với kiến thức, kinh nghiệm và cả những nỗ lực xây dựng được trong sản xuất dược liệu đã có, các thành viên đã chọn vùng cao An Toàn vì nhìn thấy được tiềm năng chưa được đánh thức ở đây, cũng như giúp đỡ bà con ở địa phương ổn định cuộc sống gắn với vùng đất này. HTX đi trước trong việc thuê đất, cải tạo để trồng dược liệu bản địa và di thực các dược liệu quý từ nơi khác về góp phần làm phong phú sản phẩm. 

Mở ra hướng sản xuất mới

HTX đang tiếp tục trồng thử nghiệm và nhân giống một số loài cây dược liệu khác, trong đó có cây thường xuân. Đồng thời, HTX liên kết với một số nhà máy trong nước để chiết xuất một số sản phẩm nguyên liệu thảo dược. Về lâu dài, thay vì chỉ sơ chế dược liệu, HTX sẽ phát triển thành mô hình sản xuất khép kín, góp phần tăng lợi nhuận, tạo thêm việc làm cho lao động địa phương.

Theo đánh giá từ giới chuyên gia, xã vùng cao An Toàn là “thủ phủ” cây dược liệu của tỉnh Bình Định với nhiều loại cây thuốc quý như: Chè dây, ba kích tím, hà thủ ô đỏ, đảng sâm…Nơi đây có một số loài cây dược liệu đang sinh trưởng, phát triển rất tốt. Nếu khai thác tiềm năng, lợi thế về đặc điểm đất đai và thời tiết, khí hậu của địa phương thì cây dược liệu sẽ mở ra hướng sản xuất mới, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào.

Không chỉ ở địa phương nêu trên, huyện miền núi An Lão được xem là vùng đất đầy tiềm năng phát triển cây dược liệu. An Lão còn nhiều rừng nguyên sinh nên có điều kiện trồng dược liệu dưới tán rừng, nhất là những loại cây bản địa có chu kỳ thu hoạch kéo dài 2-3 năm.

Nếu huyện An Lão phát triển mạnh cây dược liệu với vai trò quan trọng của các HTX sẽ giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số ở những xã vùng cao sẽ có cơ hội xóa đói giảm nghèo, bởi cây dược liệu bao giờ cũng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với các loại nông sản khác. ​​

Định hướng phát triển cây trồng chủ lực trong thời gian tới của An Lão là tập trung đẩy mạnh phát triển các loại cây trồng hiện có ở địa phương, nhất là cây dược liệu. Theo đó, huyện sẽ tiếp tục phát triển, du nhập các loại cây dược liệu phù hợp với điều kiện địa hình, khí hậu ở địa phương.

Tin rằng với hướng đi đúng này sẽ góp phần giúp cho huyện An Lão đạt được mục tiêu đề ra là thoát khỏi huyện nghèo vào năm 2025. Huyện phấn đấu đạt tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025 giảm bình quân từ 9% trên năm trở lên; đến cuối năm 2025 tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo của huyện còn 18,38%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo chiếm 14,28%, hộ nghèo 4,1%. 

Ngoài huyện miền núi An Lão thì một số địa phương khác trong tỉnh Bình Định cũng cho thấy đầy tiềm năng phát triển cây dược liệu với vai trò to lớn của khu vực kinh tế hợp tác – một mô hình kinh tế có thế mạnh thu hút, tập hợp được đông đảo người dân, nhất là người dân khu vực miền núi, dân tộc thiểu số tham gia. Nhất là cần hình thành hệ thống “chuỗi giá trị” phát triển dược liệu quý vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở Bình Định nhằm góp phần đảm bảo đầu ra sản phẩm dược liệu sản xuất trong vùng và tăng thu nhập ổn định cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Mang lại thu nhập tốt

Như ở xã Mỹ Đức, huyện Phù Mỹ (tỉnh Bình Định) có HTX nông nghiệp hữu cơ Agribio chuyên sản xuất và phân phối các loại nấm dược liệu như: Linh chi, hoàng đế, chân dài, mộc nhĩ – đã gặt hái nhiều kết quả đáng phấn khởi.

HTX có 10 thành viên, trong đó có 6 thành viên trực tiếp sản xuất tại cơ sở, 4 thành viên góp vốn. Nhờ hoạt động có hiệu quả nên thu nhập của các thành viên cũng rất ổn định. Lãnh đạo UBND huyện Phù Mỹ cho biết, đây là một trong những HTX được thành lập theo mô hình kiểu mới và hoạt động khá hiệu quả, mang lại thu nhập tốt cho các thành viên. Đây là hướng phát triển mà huyện Phù Mỹ đang đầu tư, hỗ trợ với mong muốn xây dựng thành công ngành nông nghiệp sạch, an toàn, hiệu quả.

Năm 2022, HTX nông nghiệp hữu cơ Agribio tham gia đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP cấp tỉnh với 3 sản phẩm nấm chủ lực là bào ngư xám, linh chi, hoàng đế và đều được UBND tỉnh công nhận sản phẩm OCOP cấp tỉnh hạng 4 sao. 

Nhận thấy nhu cầu về nấm linh chi tăng cao, trong khi ở Bình Định thuận lợi về nguyên liệu, kết hợp với kỹ thuật, công nghệ, HTX Agribio đã đầu tư mở rộng nhà xưởng, nhà trồng nguyên liệu, máy móc trong thu hoạch và bảo quản (xử lý nhiệt, hấp, sấy tiệt trùng, đóng gói hút chân không…), nâng cao quy mô sản xuất và xem đây là sản phẩm mũi nhọn. 

Trồng nấm linh chi ở HTX này có nhiều lợi thế, 3 – 6 tháng sau khi trồng, nấm linh chi đã bắt đầu cho thu hoạch, có thể thu hoạch 2 – 3 lần/đợt trồng. Giá thể trồng nấm sau khi thải loại được sử dụng để làm nguyên liệu sản xuất phân bón hữu cơ.

Ông Trần Quang Tiến, Giám đốc HTX, cho biết mục tiêu của HTX là tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư thêm công nghệ mới để có thể chế biến được nhiều sản phẩm thành phẩm từ nấm dược liệu, nhằm tăng sức tiêu thụ. Chúng tôi mong muốn có được một kênh tiêu thụ mạnh hơn, kết nối được với nhiều thị trường để có thể ổn định đầu ra. 

Từ việc đảm bảo đầu ra, HTX tập trung cho việc ổn định vùng nguyên liệu tại địa phương, toàn bộ quá trình sản xuất khép kín, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Mục tiêu tiếp theo của HTX là nâng hạng để sản phẩm có thể đạt 5 sao của tỉnh và tiến tới mục tiêu xa hơn.

Theo Văn phòng Điều phối xây dựng nông thôn mới tỉnh Bình Định, sản phẩm nấm của Agribio Mỹ Đức rất giàu tiềm năng, có sự đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm. Một điểm cộng của các sản phẩm này, đó là lợi ích mà nó tạo ra góp phần gia cố mối liên kết chặt chẽ giữa đơn vị sản xuất với cộng đồng dân cư địa phương, mở hướng phát triển ngành nghề nông thôn.

Có thể thấy, hoạt động hiệu quả từ mô hình trồng nấm dược liệu của HTX nêu trên rất cần được nhân rộng nhằm giúp giảm nghèo cho bà con ở huyện Phù Mỹ với mục tiêu đến năm 2025 giảm tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn huyện dưới 4%.

Theo Thời Báo Kinh Doanh

Là một trong 10 điển hình công dân Thủ đô ưu tú sẽ được vinh danh đúng Ngày Giải phóng Thủ đô 10-10, ông Nguyễn Phi Đức, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp, kinh doanh, thương mại tổng hợp Dương Liễu (Hợp tác xã Dương Liễu), huyện Hoài Đức được đánh giá là người nhạy bén, bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, một “thuyền trưởng” tài ba. Ông đã có hơn 25 năm gắn bó với hợp tác xã, xây dựng đơn vị từ trung bình trở thành điển hình của thành phố Hà Nội và cả nước.

Kiên định mô hình kinh tế tập thể

Ông Nguyễn Phi Đức đã đứng đầu Hợp tác xã Dương Liễu liên tục 25 năm. Ông chia sẻ: “Có nhiều giai đoạn, hợp tác xã thực sự khó khăn, nhưng chưa khi nào tôi chùn bước, bởi đơn giản mô hình kinh tế tập thể thực sự là mô hình kinh tế của dân, do dân và vì dân. Tôi tin, nếu mình sáng tạo, kiên trì theo đuổi, nhất định con đường phát triển của hợp tác xã sẽ ngày một tươi sáng”.

Với 25 năm gắn bó với hợp tác xã, ông Nguyễn Phi Đức đã có nhiều sáng kiến đưa kinh tế tập thể phát triển bền vững.

Đến nay, Dương Liễu là một trong ít những địa phương mà hợp tác xã miễn toàn bộ các loại dịch vụ nông nghiệp khi cung ứng phục vụ cho nhân dân. Ông Đức cho hay: “Với diện tích đất nông nghiệp của toàn xã là hơn 270ha, điều kiện sản xuất có nhiều khó khăn do là địa bàn ven đô, nằm trong vùng quy hoạch đô thị, để hỗ trợ bà con duy trì sản xuất, tôi đã cùng Hội đồng quản trị Hợp tác xã thống nhất hỗ trợ thành viên 5 dịch vụ đầu vào phục vụ miễn phí, như: Dịch vụ thủy nông, dịch vụ bảo vệ hoa màu, dịch vụ tu sửa giao thông thủy lợi nội đồng, dịch vụ dự thính dự báo sâu bệnh, công tác khuyến nông… Nhờ đó, giá trị sản xuất nông nghiệp của địa phương đã đạt 203 triệu đồng/ha, nông dân không chán ruộng, bỏ ruộng, dù là xã làng nghề phát triển”.

Để có thể duy trì dịch vụ nông nghiệp miễn phí cho các thành viên, Hợp tác xã Dương Liễu đã phát triển mạnh các dịch vụ phi nông nghiệp và duy trì, phát triển nghề truyền thống, như các nghề: Thêu, chế biến tinh bột, kinh doanh miến dong…

Đánh giá về người đứng đầu Hợp tác xã Dương Liễu, Phó Trưởng phòng phụ trách Phòng Kinh tế Hoài Đức Cao Văn Tuyến khẳng định, 6 nhiệm kỳ liên tục được thành viên tín nhiệm làm Chủ nhiệm, Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị (từ năm 1998 tới nay), ông Nguyễn Phi Đức luôn là người lãnh đạo gương mẫu, có trách nhiệm cao trong công việc, cũng như tích cực tham gia các hoạt động của xã, huyện và phong trào phát triển kinh tế tập thể của Thủ đô, cả nước.

Con người của những sáng kiến, đổi mới và sáng tạo

Nhiều năm gắn bó, lăn lộn với các hoạt động của hợp tác xã, ông Nguyễn Phi Đức đã có nhiều sáng kiến được ghi nhận, đánh giá cao. Ông đã trực tiếp xây dựng đề án “Củng cố, đổi mới hợp tác xã theo luật Hợp tác xã năm 2012”. Những phân tích, đánh giá, đề xuất xử lý tài sản hợp lý; phương án nhân sự khoa học, có giải pháp hữu hiệu đã được Đại hội thành viên và đông đảo xã viên tán thành, tỷ lệ xã viên tham gia thành viên đạt hơn 98%. Là hợp tác xã đầu tiên của Hà Nội tổ chức lại hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012, được Liên minh Hợp tác xã thành phố cử giới thiệu nội dung và kinh nghiệm tổ chức lại hợp tác xã tại địa bàn các huyện Hoài Đức, Bắc Từ Liêm, Thạch Thất, Phúc Thọ.

Một sáng kiến nữa của ông Đức được coi là mở đường cho các hợp tác xã truyền thống tham gia vào các loại hình kinh doanh thương mại, du lịch là việc thành lập doanh nghiệp trực thuộc hợp tác xã. Sau một thời gian hoạt động thí điểm, năm 2017, Hợp tác xã đã thành lập Công ty TNHH một thành viên Thương mại và Du lịch An Hưng trực thuộc hợp tác xã với vốn điều lệ 2,5 tỷ đồng. Hiện tại, hoạt động của công ty ở 3 lĩnh vực: Du lịch lữ hành, vận tải du lịch và quản lý chợ.

Đặc biệt, ông Đức đã có sáng kiến xây dựng hệ thống quản lý thành viên và khách hàng sử dụng dịch vụ của hợp tác xã đồng bộ, hiện đại. Hiện, số xã viên đăng ký tham gia thành viên hợp tác xã lên tới 2.507 thành viên và khách hàng sử dụng dịch vụ của hợp tác xã cũng rất lớn, với hơn 5.000 khách hàng.

Để bảo đảm tính khoa học và tính thống nhất trong quản lý, ông Đức đã định hướng và chỉ đạo chuyên môn xây dựng hệ thống quản lý thành viên và khách hàng, như: Ban hành quy định mã thành viên theo thôn, phân loại mã thành viên đăng ký lại, mã thành viên đăng ký mới… Việc quản lý, sử dụng dịch vụ của các thành viên đã được hợp tác xã theo dõi trên hệ thống phần mềm thuận tiện.

Trong quản lý, điều hành, ông Đức còn được đánh giá cao trong việc thực hành tiết kiệm, chống tổn hao điện năng của hợp tác xãGiai đoạn từ năm 2014 đến năm 2022, tổn hao điện thương phẩm của hợp tác xã giảm từ 8,9%, xuống còn 3% mỗi năm, làm lợi cho hợp tác xã hàng tỷ đồng. Từ hiệu quả giảm tổn thất điện năng, hợp tác xã có đủ nguồn lực đầu tư công suất cấp điện từ 11.250KVA lên 22.470KVA, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn. Các hoạt động chuyển đổi số của đơn vị cũng được triển khai sớm để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, như quản lý dữ liệu theo phần mềm hiện đại, đa dạng hình thức nộp tiền, khuyến khích không sử dụng tiền mặt, thực hiện nhắn tin SMS, Zalo thông báo tiền điện cho khách hàng. Hiện tại, tỷ lệ khách hàng thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt đạt 40%.

Nói về ông Nguyễn Phi Đức, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Hà Nội Nguyễn Tiến Phong cho biết, ông Đức là người trưởng thành từ hợp tác xã, thấm nhuần các chính sách, đường lối, chủ trương, mục đích của hợp tác xã. Trong quản trị, điều hành, ông luôn lấy mục tiêu phát triển kinh tế để hỗ trợ cộng đồng, chăm lo đời sống thành viên và người lao động; coi nhiệm vụ hỗ trợ các hoạt động cộng đồng là vì mục tiêu phát triển hợp tác xã, qua đó làm sáng rõ, chứng minh tính ưu việt của kinh tế tập thể, hợp tác xã so với các thành phần kinh tế khác.

Theo vca.org.vn

Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Tiến thuộc xã Khánh Nhạc, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình là một trong những Hợp tác xã Nông nghiệp thành lập từ năm 1959 của phong trào kinh tế hợp tác, có bề dày truyền thống trong phong trào sản xuất nông nghiệp và xây dựng kinh tế tập thể. Bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế, Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Tiến đã từng bước đổi mới, phát huy vai trò quản lý điều hành góp phần nâng cao đời sống và thu nhập của thành viên tạo điều kiện phát triển kinh tế tập thể tại địa phương.

Toàn HTX Nông nghiệp Hợp Tiến có 331,1 ha đất canh tác, trong đó có 322,5 ha đất 2 lúa. Hầu hết các hộ nông dân trên địa bàn đều có đại diện tham gia là thành viên HTX, góp vốn điều lệ và sử dụng các dịch vụ của HTX.
Trụ sở làm việc HTX Nông nghiệp Hợp Tiến
Từ khi chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã năm 2012 đến nay, HTX Nông nghiệp Hợp Tiến đã tạo ra được nhiều việc làm và nâng cao thu nhập cho các thành viên trong và ngoài HTX. Với 1.161 thành viên tham gia, doanh thu của HTX duy trì từ 5 đến 6 tỷ đồng/năm; duy trì tốt hoạt động liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng có hiệu quả kinh tế thấp sang cây trồng có giá trị kinh tế cao giúp cho thành viên đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận. HTX nằm trong top đầu trong tỉnh, huyện về năng suất, giá trị ha gieo trồng, sản xuất vụ đông đến năm 2022 đạt 25% diện tích gieo trồng trên đất hai lúa được trồng cây hàng hóa có giá trị cao.
 
Hiện nay, Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Tiến đang duy trì và thực hiện 10 khâu dịch vụ mang lại nhiều lợi ích cho thành viên. Sản xuất lúa của các thành viên trong HTX đã đạt tới trình độ nhất định như: Làm đất tập trung, gieo thăng, gieo mạ khay cấy máy, chủ động cả tưới và tiêu phun thuốc bảo vệ thực vật bằng máy, thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp, sấy khô nông sản, sử dụng máy thu gom rơm tận dụng nông sản phụ làm nguyên liệu sản xuất nấm. HTX cũng đưa vào áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật, giống cây con mới vào sản xuất, như chuyển đổi 100% diện tích từ cấy truyền thống sang gieo vãi; chế tạo máy phun thuốc trừ sâu, áp dụng máy rải phân bón, máy gặt, lò sấy lúa…
Việc tập trung cơ giới hóa đồng bộ các khâu từ làm đất, gieo cấy, phun thuốc bảo vệ thực vật, thu hoạch bằng cơ giới hóa giúp giảm chi phí lao động, đạt hiệu quả kinh tế cao. HTX đã cải tiến 3 máy phun thuốc trừ sâu giúp cho các thành viên không có điều kiện phun thuốc vẫn đảm bảo phun khử đúng thời vụ, không xảy ra thiệt hại do sâu bệnh.
 
Năm 2012, Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Tiến là đơn vị đầu tiên trên địa bàn tỉnh Ninh Bình tiến hành dồn điền đổi thửa, kết hợp với chỉnh trang đồng ruộng, vận động các hộ thành viên đóng góp trên 4 tỷ đồng để quy hoạch lại đồng ruộng, làm lại hệ thống giao thông, thủy lợi trước khi giao lại ruộng cho nhân dân. Nhờ đó, đã tạo ra sự thay đổi lớn trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn và đã được Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới của tỉnh nhân rộng ra các đơn vị trong Tỉnh. Cùng với dồn điền đổi thửa, từ năm 2018, HTX đã thực hiện tích tụ ruộng đất dồn đổi 50 ha đất nông nghiệp thuê của các hộ không có lao động sản xuất thành ô thửa lớn để sản xuất lúa hàng hóa. Từ đó, HTX cho các hộ có điều kiện sản xuất tham gia cấy với diện tích từ 1 ha trở lên. Việc sản xuất với diện tích lớn đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, đời sống của các hộ tham gia sản xuất được nâng lên rõ rệt. Bên cạnh đó, Hợp tác xã đã chủ động liên kết với các doanh nghiệp thu mua thóc hàng hóa cho các hộ thành viên từ 300-500 tấn lúa tươi đảm bảo đầu ra cho các hộ yên tâm sản xuất.
Để giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong lúc nông nhàn, HTX cũng liên kết với các doanh nghiệp tìm một số mặt hàng về cho xã viên làm. HTX làm tốt các khâu dịch vụ, cho vay vốn, mượn mặt bằng dạy nghề, sản xuất, chế biến hàng cói, bèo bồng khô xuất khẩu tạo việc làm cho cho 500 lao động nông nhàn.
 
Về chăn nuôi, do ảnh hưởng của dịch Tả lợn châu Phi bùng phát và lan rộng gây thiệt hại ở các gia trại nuôi, HTX cùng với cán bộ thú y xã tham mưu cho UBND xã chuyển sang chăn nuôi gia cầm, gà thả vườn, vịt súp bơ, nuôi bò thịt, bò sinh sản. Chăn nuôi tiếp tục phát triển theo hướng trang trại, gia trại, an toàn sinh học. Diện tích nuôi trồng thủy sản được tận dụng triệt để. Công tác phòng chống dịch bệnh được quan tâm chỉ đạo, cán bộ xã viên phối hợp với cán bộ thú y làm tốt công tác tiêm phòng, phun thuốc khử trùng tiêu độc định kỳ cho đàn gia súc, gia cầm đảm bảo vệ sinh môi trường nguồn nước nuôi trồng thủy sản.
 
Không chỉ đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh HTX còn đống góp tích cực vào phong trào Xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Đời sống vật chất và tinh thần của các hộ thành viên ngày càng được cải thiện rõ rệt.
Với việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vượt mức các chỉ tiêu đề ra, Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Tiến là đơn vị dẫn đầu khối thi đua các HTX Nông nghiệp của tỉnh Ninh Bình năm 2022, đủ điều kiện được tặng Cờ thi đua của Chính phủ./.

Theo vca.org.vn

Tận dụng lợi thế của địa bàn xã Đoàn Kết (huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình) có diện tích rừng lớn với nhiều loại hoa đa dạng ở vùng đệm Vườn Quốc gia Cúc Phương, HTX Dịch vụ và xây dựng nông nghiệp Đại Lợi đã và đang thu được những thành quả “ngọt ngào” từ nghề nuôi ong lấy mật.

Trời đã gần trưa, tại trụ sở HTX Đại Lợi ở xóm Cửa Lũy, một số thành viên HTX vẫn cẩn thận đong rót hàng chục lít mật ong vào các hũ thủy tinh xinh xắn, chuẩn bị cho chuyến hàng giao cho một đại lý ở Hà Nội.

Một thành viên cho biết, bên cạnh lượng mật ong lớn đóng can hàng chục lít, sản phẩm mật ong của HTX cũng được chia nhỏ vào những hũ thủy tinh có gắn tem nhãn truy xuất nguồn gốc đầy đủ, mang thương hiệu Đại Lợi – Mật ong Đoàn Kết.

Chi phí thấp, lợi nhuận cao

Theo Giám đốc Bùi Văn Nhiện, vụ vừa qua, toàn HTX với 700 đàn ong thu được khoảng 3.000 lít mật, giá bán buôn 170.000 đồng/lít, bán lẻ 260.000 đồng/lít. Năm 2022, HTX thu được khoảng gần 650 triệu đồng tiền bán mật ong, lợi nhuận khoảng 350 triệu đồng.

HTX Đại Lợi có quy mô nuôi 700 đàn ong, mang lại thu nhập đáng kể cho các thành viên, góp phần vào công tác giảm nghèo ở địa phương.

Tất cả các thành viên HTX đều phấn khởi, bởi từ khi tham gia hoạt động sản xuất theo mô hình HTX, họ đã đạt được nhiều lợi ích từ việc được hỗ trợ, chia sẻ kỹ thuật nuôi ong giúp nâng cao năng suất, hiệu quả nuôi.  

“Chúng tôi được hỗ trợ tập huấn, học hỏi trao đổi kinh nghiệm nuôi ong, thống nhất cách nuôi ong đạt chất lượng mật ngon, hiệu quả nuôi tốt hơn trước. Nhà tôi có 100 đàn ong, mỗi năm cho 800 lít mật, trừ chi phí đầu tư thùng gỗ, cầu, trang thiết bị bảo hộ…, mỗi năm thu gần 100 triệu đồng”, ông Bùi Văn Quỳnh, xóm Đồng Lạc, vào HTX ngay từ ngày đầu thành lập, chia sẻ.

Tên tuổi sản phẩm mật ong của HTX Đại Lợi được khẳng định, có nhãn mác rõ ràng, tem truy xuất nguồn gốc. Đặc biệt, năm 2022, sản phẩm mật ong của HTX được chứng nhận đạt OCOP (chương trình mỗi xã một sản phẩm) 3 sao, nhờ đó giá trị tăng lên, giá bán buôn cũng như bán lẻ mật ong được cải thiện rõ rệt.

“Nếu như trước đây chưa vào HTX, gia đình tôi bán lẻ mật ong cho khách có lúc thuận song cũng có lúc chật vật, bởi khách quen thì biết rõ chất lượng, khách lạ đôi khi còn nghi ngại sản phẩm không biết có chuẩn hay không.

Nay thì sản phẩm của các thành viên HTX được sản xuất đồng loạt cùng một tiêu chuẩn, có tem truy xuất nguồn gốc, nhờ thế giá bán cũng tăng cao hơn. Trước, thương lái mua buôn mật ong nhà tôi với giá chỉ 150.000 đồng/lít, nay nhờ có thương hiệu nên họ chấp nhận mua với giá 170.000 đồng”, ông Quỳnh vui vẻ nói.

Tại khu vườn nhà ở xóm Nam Thái có 50 thùng nuôi ong, Phó Giám đốc HTX Bùi Văn Phụ nhẹ nhàng mở nắp thùng để kiểm tra “sức khỏe” đàn ong. Ông Phụ bảo, nghề nuôi ong không khó, chỉ khó với người không hiểu đặc điểm sinh học, tập quán của con ong. Nuôi ong cũng không phải đầu tư quá nhiều, chỉ cần khoảng 200.000 đồng là có thể sở hữu một “ngôi nhà” cho đàn ong, bên trong là hệ thống các chân tầng được thiết kế nhân tạo, thuận lợi cho bầy ong tạo mật, làm tổ. Các thùng ong được đặt ở nơi thoáng mát, sạch sẽ, các cửa lỗ ra vào được thiết kế nhỏ gọn chỉ để ong chui vừa, phòng thiên địch xâm nhập.

Tất cả 700 đàn ong của HTX được nuôi hoàn toàn theo phương pháp tự nhiên, nương theo quy luật sinh trưởng của ong mà hỗ trợ ong sinh tồn, thu mật. Thời kỳ nghỉ đông, thức ăn tự nhiên khan hiếm, lượng phấn hoa và mật ong – sản phẩm của bầy ong dự trữ, quay ngược trở lại nuôi chính đàn ong.

Tại HTX Đại Lợi, người nuôi ong chỉ hỗ trợ pha loãng mật với nước sạch theo một tỷ lệ nhất định để tránh trường hợp mật đặc sánh quá làm dính cánh ong, ngoài ra người nuôi không cho ong ăn thêm bất cứ thức ăn nào khác.

Quá trình nuôi ong tự nhiên cùng với việc khai thác thận trọng, mật ong sau khi thu hoạch được lọc sạch và sử dụng máy hạ thủy phần để tách bớt nước ra khỏi mật. Chính vì vậy, sản phẩm mật ong do HTX cung ứng luôn vàng óng, sánh và có vị ngọt thanh, để lâu không bị chuyển màu thâm đen.

“Cứ nói là nuôi ong lấy mật nhưng thực chất có phải nuôi đâu, mà ong tự làm ra mật lại quay vòng nuôi chính nó trong những tháng nghỉ đông đấy chứ. Đúng ra là con ong đang cho “mật ngọt” nuôi lại người chăm ong!”, ông Nhiện đùa vui.

Ông Nhiện cho hay, nếu nuôi ong mà nói lợi nhuận không cao thì không biết nuôi con gì có thể cao hơn nữa? Bình quân lợi nhuận đem lại từ nuôi ong có thể đạt tới 50-60% sau khi đã trừ hết các khoản chi.

Thành công nhờ “ăn ngủ” với con ong

Tuy nhiên, cũng theo ông Nhiện, làm nghề này muốn thành công, người nuôi ong phải “ăn ngủ” với con ong. Mùa hè thì phải để ý che chắn giữ cho “nhà” của ong không bị nóng quá, phải thoáng mát sạch sẽ. Đông đến thì phải che kín gió không để ong nhiễm lạnh. Các cửa ra vào phải được thiết kế phù hợp, tránh bị thiên địch xâm nhập. Đặc biệt, phải chú ý canh chừng ong rừng thâm nhập vào “gây chiến”, phá đàn.

“Nói chung cũng phải bỏ tâm huyết để chăm chút mới thu được “mật ngọt”, ông Nhiện chia sẻ.

Kinh nghiệm nuôi ong gần chục năm của ông Phụ cho thấy, lượng mật nhiều hay ít, chất lượng ngon hay không phụ thuộc rất nhiều vào con ong chúa. Con ong chúa to khỏe, sáng màu thường sinh sản tốt. Ong chúa khỏe sẽ tạo đàn ong khỏe, từ đó cho sản lượng, chất lượng mật tốt. Một người nuôi ong giỏi được đánh giá là người nhân bản được đàn ong với số lượng lớn hoặc gây đàn nhỏ nhưng sản lượng mật thu lại được nhiểu.

Ông Bùi Văn Chung, xóm Mền Liên Kết, thành viên nuôi nhiều ong nhất HTX cho biết, nhà ông có 200 đàn ong, bình quân mỗi năm cho sản lượng 1.700 lít mật, doanh thu đạt 300 triệu đồng. Trong một năm, số lượng ong biến động tương đối lớn tùy theo sức khỏe, tỷ lệ chết của ong hết vòng đời và tỷ lệ sinh ra của ong mới. Trung bình tuổi thọ – tức một vòng đời của một con ong chúa là 4 năm, với ong thợ là 2 tháng.

Ông Chung chia sẻ kinh nghiệm nuôi: “Với phương thức nuôi ong lấy mật, người nuôi ong phải biết chọn lọc con ong chúa tốt, cứ 6 tháng thay con chúa một lần để đảm bảo chất lượng sinh sản đạt hiệu suất cao”.

Nói về kỹ thuật khai thác mật, ông Phụ cho biết, con ong có tính bảo vệ mật rất cao, nên đến thời kỳ mật vít nắp, muốn khai thác, người nuôi ong phải khéo léo, nhẹ nhàng, tránh gây va chạm mạnh, gây sốc cho đàn ong.  

Lượng mật khai thác phụ thuộc vào chất lượng đàn ong và thời điểm khai thác. Vào mùa cao điểm, khi đàn khỏe, trong mỗi thùng, người nuôi để 5-6 chân tầng. Trung bình, sau khoảng 10 ngày sẽ cho một lượt quay mật, lượng mật khoảng 1,5 – 2 lít. Mùa ít hoa, ong được nghỉ dưỡng, mỗi thùng chỉ để 1-2 chân tầng và không khai thác mật.

Những năm qua, nhờ được tập huấn tốt về kỹ thuật chăm sóc cộng với kinh nghiệm nuôi ong nhiều năm nên đàn ong của các thành viên HTX đều đạt chất lượng tốt, không bị dịch bệnh nghiêm trọng, nhờ đó lượng hao hụt rất ít.

Ông Nhiện chia sẻ, thời gian tới, HTX tiếp tục quan tâm phát triển đàn, chú trọng phát triển thương hiệu, tiến tới mở rộng thị trường. Mới đây, một doanh nghiệp dược tại Hải Dương đã về thăm vườn nuôi ong của HTX và có dự định sẽ ký hợp đồng thu mua mật làm nguyên liệu chế biến thuốc. Kỳ vọng đây là một kênh tốt cho HTX trong việc hỗ trợ các thành viên bao tiêu sản phẩm.

Bên cạnh đó, HTX cũng cử người đi chào hàng, mở rộng kênh bán lẻ tại các tỉnh thành. Đặc biệt, kênh thương mại điện tử, các trang mạng xã hội như Zalo, Facebook. Tiktok… được HTX ưu tiên, nhiều bạn trẻ trong các hộ thành viên đang hỗ trợ đắc lực trong việc bán sản phẩm của gia đình thông qua những kênh này.

“Quan điểm của HTX là cứ làm đúng, làm thật, chất lượng tốt thì người tiêu dùng sẽ đón nhận, từ đó tạo đà mở rộng quy mô hơn cho HTX, tăng thành viên, cũng tạo điều kiện tăng thu nhập và lợi nhuận lớn cho người nuôi ong đúng như kỳ vọng ngay trong tên gọi của HTX”, ông Nhiện bày tỏ.

Theo Thời Báo Kinh Doanh

Do chưa có kinh nghiệm, thiếu nguồn lực về kỹ thuật và tài chính, nên việc thực hiện tín chỉ carbon của người dân, HTX sẽ gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, các khung khổ pháp lý trong lĩnh vực này mới đang trong giai đoạn nghiên cứu, xây dựng.

Xác định bảo vệ môi trường, phát triển bền vững là yếu tố then chốt, HTX Nông nghiệp Bình Hòa (tỉnh Đồng Tháp) áp dụng kỹ thuật cung cấp nước “ngập – khô xen kẽ” trong sản xuất lúa hàng hóa. Đây là phương pháp canh tác lúa tiết kiệm nước, giảm phát khí thải nhà kính được HTX áp dụng nhiều năm qua.

Theo đó, các thành viên duy trì mực nước ở ruộng từ 5 – 10cm, vừa đủ cho lúa nuôi hạt, khi lúa bắt đầu chín sẽ rút nước đi. Kỹ thuật “ngập – khô xen kẽ”, giảm lượng nước tưới trên ruộng lúa là phương pháp giúp giảm ít nhất khoảng 3,5 lần lượng khí thải nhà kính so với các ruộng lúa để nước ngập suốt cả vụ. Phương pháp này còn giúp người dân, HTX tiết kiệm được chi phí mà không làm giảm năng suất.

Chờ khung khổ pháp lý

Không chỉ trong lĩnh vực sản xuất lúa, mà nhiều mô hình từ trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng… của các HTX đã làm rất tốt việc đổi mới công nghệ, kỹ thuật hướng đến giảm khí thải nhà kính.

Tuy nhiên, làm sao để các HTX có thể biến quy trình sản xuất xanh thành tín chỉ carbon, thành một loại hàng hóa thì còn rất nhiều việc phải làm.

Bởi để có tín chỉ carbon, HTX sẽ trải qua nhiều quy trình đánh giá tác động sản xuất kinh doanh. Nếu HTX đã thay đổi quy trình sản xuất kinh doanh để giảm phát thải nhà kính thì có thể quy thành tín chỉ carbon. Tuy nhiên, tín chỉ carbon này phải đủ chất lượng, được xác nhận thì mới có thể thành hàng hóa. Nhưng theo các chuyên gia, hiện nay, quy trình đánh giá, xác nhận tín chỉ rất phức tạp do thị trường quốc tế có nhiều tổ chức tham gia, trong khi Việt Nam chưa hoàn thiện quy trình này.

Ông Nguyễn Hữu Dương, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc HTX Nông nghiệp Hiệp Thuận (Quảng Nam), cho biết hiện HTX chưa biết các tiêu chí, tiêu chuẩn về tín chỉ carbon là tiêu chuẩn riêng của Việt Nam hay được lồng ghép với tiêu chuẩn của thế giới hoặc thừa nhận luôn tiêu chuẩn của thế giới? Vì qua tìm hiểu, các thành viên HTX biết rằng khung pháp lý của Việt Nam về tín chỉ carbon mới ở giai đoạn bắt đầu xây dựng.

“Ngay như tiêu chuẩn VietGAP, nhiều đơn vị thứ ba (đơn vị chứng nhận) ở Việt Nam có thể làm được nhưng đối với tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế thì không phải đơn vị thứ ba nào ở Việt Nam cũng có thể làm được. Nên việc có được quy định rõ ràng để có hướng đi phù hợp là điều HTX rất quan tâm”, ông Dương chia sẻ.

Sản xuất hạn chế phát thải khí nhà kính là hướng đi hiệu quả, bền vững đang được nhiều nông dân, HTX thực hiện.

Ông Phan Hoàng Em, Phó Giám đốc HTX nông nghiệp Phú Thọ (Đồng Tháp) cho biết, theo Nghị định 06/2022/NĐ-CP, phải từ năm 2025, Nhà nước mới thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon. Đến hết năm 2027, Nhà nước mới xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon… Đây là quãng thời gian khá dài nhưng nhiều HTX không biết từ nay đến 2025 phải làm gì và từ nay đến 2028 phải làm gì cho phù hợp.

Chính vì vậy, có những HTX như HTX Phú Thọ đang rất mong có những hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn, thay vì chỉ chờ đợi những văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước. 

Phát triển “của để dành”

Thực tế cho thấy, nhiều nước đang đẩy mạnh hoạt động sản xuất xanh, thực hiện mua bán tín chỉ carbon nhằm hạn chế hiện tượng biến đổi khí hậu, vì tín chỉ carbon được coi là “của để dành” và khi mang ra mua bán sẽ giúp nhiều HTX, doanh nghiệp có thêm nguồn vốn để tái đầu tư. Nên dù muốn hay không, các HTX, doanh nghiệp Việt cũng cần biết đến và tham gia tích cực vào thị trường này.

Bà Nguyễn Thị Thu Liên (Hiệp hội Thực phẩm minh bạch AFT) cho rằng tham gia thị trường tín chỉ carbon, các chủ mô hình sản xuất kinh doanh sẽ được hưởng lợi về sau khi được quyền quy đổi lượng CO2. Hiện, 1 tấn CO2 bằng 1 tín chỉ – tại châu Âu có giá 83 USD và dự báo sẽ lên đến 280 USD vào năm 2026.

Như vậy, giá trị thu về từ bán tín chỉ carbon là không nhỏ, nhất là khi Việt Nam có nhiều điều kiện có thể phát triển thành những mô hình sản xuất xanh, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Ngay như trong lĩnh vực lâm nghiệp, khi người dân, HTX trồng thêm nhiều rừng thì đồng nghĩa với việc nguồn tiền thu về sẽ càng lớn mà không phải chặt hạ cây, từ đó sẽ giúp họ tăng cường tái đầu tư vào quản lý, bảo vệ rừng.

Tuy nhiên, thách thức hiện nay là muốn có tín chỉ carbon, có sản phẩm xanh đều đòi hỏi những bước chuyển mình cụ thể của nông dân, HTX, doanh nghiệp. Trong đó có bước kiểm kê toàn bộ quy trình, hoạt động xem đâu đang là quy trình sản sinh ra nhiều khí nhà kính để HTX ưu tiên nguồn lực cải thiện. Điều này đòi hỏi cả sự hiểu biết, tài chính, sự sắp xếp tái cấu trúc hoạt động của đơn vị sản xuất.

Trong khi hiện nay, không chỉ các doanh nghiệp mà ngay các HTX cũng đang sản xuất trong bối cảnh thị trường hết sức khó khăn bởi thách thức về nguồn vốn, dòng tiền, thị trường, vật tư đầu vào… Việc làm sao tồn tại được ở thời kỳ hậu Covid-19 cũng đã khiến các HTX chật vật, chưa nói gì đến những đầu tư, thay đổi về quy trình sản xuất.

Chính vì vậy, theo các chuyên gia, trong điều kiện sản xuất còn nhiều khó khăn và đang chờ các quy trình chứng nhận tín chỉ carbon, cách thức giảm nhẹ khí thải nhà kính… từ cơ quan quản lý, những đơn vị chưa có sự chuyển đổi cụ thể nào nên chủ động thu thập số liệu, kiểm kê xem đâu là khâu phát thải nhiều khí nhà kính nhất để có hướng chuyển đổi phù hợp, sau này sẽ giúp bên thứ ba kiểm định một cách thuận lợi hơn.

Hiện đã có các đơn được cấp tín chỉ carbon nhưng do tổ chức quốc tế độc lập đánh giá nhưng số lượng rất ít, trong đó chủ yếu tập trung vào doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu, vì chi phí cho tổ chức nước ngoài vào thẩm định tín chỉ carbon được cho là rất tốn kém, thậm chí tốn kém hơn chi phí HTX, doanh nghiệp phải bỏ ra để đầu tư cho sản xuất xanh. Chính vì vậy, không ít HTX phải tính toán, cân nhắc trong quá trình phát triển, đầu tư.

TS. Phạm Khánh Nam, Viện trưởng Viện Kinh tế Môi trường Đông Nam Á (EEPSEA), cho biết hiện đã có những mô hình sản xuất theo hướng bền vững nhưng họ lại chưa biết làm gì, bắt đầu từ đâu để tham gia thị trường tín chỉ carbon. Vì vậy, các cơ quan quản lý, địa phương cần tạo điều kiện cho những mô hình này thực hiện thí điểm hoặc tham gia các dự án trong thời điểm chờ đợi các thiết chế cụ thể về tín chỉ carbon.

Bên cạnh đó, có những HTX, doanh nghiệp đã chủ động tìm hiểu thông tin về thị trường tín chỉ carbon nhưng vẫn có những thông tin ngoài tầm với, ngoài khả năng tìm hiểu của họ nên cần sự hỗ trợ của Nhà nước, cơ quan quản lý trong truyền tải thông tin một cách phù hợp.

Đi liền với đó, chuyển đổi sản xuất để hạn chế phát thải rất cần nguồn lực về tài chính và nhân lực, nên HTX cần chủ động trong ứng dụng công nghệ, kỹ thuật, phù hợp. Có nhiều phương pháp sản xuất bền vững nhưng tiết kiệm chi phí trong sản xuất nông nghiệp cần được phát huy và tiếp tục ứng dụng hiệu quả như ủ phân hữu cơ, “1 phải 5 giảm”, “ngập – khô xen kẽ”… bên cạnh những đầu tư cần nhiều chi phí.

Theo Thời Báo Kinh Doanh

Những chuỗi liên kết giữa HTX dịch vụ nông nghiệp Lương Phú và các doanh nghiệp đã góp phần giúp hàng nghìn người lao động là đồng bào dân tộc thiểu số Mường, Thái sinh sống trên địa bàn huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình thoát nghèo và vươn lên khá giả.

Có được thành công này là do Giám đốc HTX Nguyễn Thị Bảy chủ động tìm kiếm đối tác, bắt tay với các doanh nghiệp tạo hàng loạt chuỗi liên kết. Chị Bảy đã đứng ra làm cầu nối, từ đó người nông dân và doanh nghiệp có “tiếng nói chung”, an tâm hợp tác mang lại hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh.

Thoát nghèo nhờ nghề “tay trái”

Tại tổ mây tre đan thuộc xã Thanh Hối, gần 20 chị em phụ nữ, người cao tuổi đang mải miết đan những chiếc giỏ, lồng đèn bằng cỏ tranh để kịp chuyến hàng xuất đi Nhật.

Chị Bùi Thị Thanh, nhà tại xóm Bảo, là thành viên HTX, từng là hộ nghèo cho biết, chị tham gia HTX được hơn 5 năm. Trước kia, gia đình chị thuần túy làm nông nghiệp, bản thân chị là lao động chính, năm thì được mùa nhưng giá rẻ, có năm gặp thời tiết khắc nghiệt bị mất mùa, cuộc sống bấp bênh, gia đình chẳng lúc nào được dư dả.

“Từ ngày tham gia tổ đan lát, nhà tôi có đồng ra đồng vào, cuộc sống cũng đỡ cơ cực. Bình quân mỗi tháng tôi có thu nhập khoảng 5 triệu đồng. Tháng cao điểm, làm nhiều có khi được 7-8 triệu. Tôi làm chậm, chứ tổ này có người làm nhanh, giỏi có tháng thu nhập được chục triệu”, chị Thanh kể.

HTX Lương Phú được thành lập từ năm 2013, đến nay có 13 thành viên. HTX chuyên cung ứng dịch vụ vật tư đầu vào, dịch vụ dự báo dịch bệnh trên cây trồng, dịch vụ bao tiêu đầu ra cho các sản phẩm nông sản của thành viên và các hộ liên kết…, nhưng thế mạnh của HTX là mảng đan lát các sản phẩm thủ công mỹ nghệ để xuất bán đi thị trường nước ngoài.

Người có công đưa nghề thủ công mỹ nghệ về cho các thành viên cũng như người dân ở huyện Tân Lạc chính là chị Nguyễn Thị Bảy – Giám đốc HTX Lương Phú.

Mặc dù HTX thành lập mới được 10 năm nhưng gần 20 năm qua, chị Bảy đã tự nhận khoán các sản phẩm của công ty xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ về giao việc cho bà con nông dân.

Đau đáu với những nỗi vất vả của người nông dân tại địa phương, chị Bảy luôn vận động, mày mò tìm sản phẩm phù hợp, đào tạo nghề, tạo việc làm cho các thành viên và hộ liên kết.

Cùng thời điểm này năm ngoái, hàng mây tre đan xuất khẩu sang Nhật bán rất chạy. Có tháng cao điểm, HTX xuất bán tới 40.000 sản phẩm, doanh số đạt 900 triệu đồng, lợi nhuận đạt 240 triệu đồng.

Quy trình tham gia đan lát cho HTX rất đơn giản, người dân nếu có nhu cầu có thể tham gia làm thành viên HTX, được HTX giao việc theo đó hưởng theo năng suất lao động. Hoặc những hộ dân không thuộc tổ chức HTX muốn đan thuê lấy công có thể nhận hàng về tự làm tại nhà.

Nhiều người không biết nghề, sau một thời gian được HTX hướng dẫn đã làm thành thục. Một số người ban đầu đến với đan lát chỉ là nghề tay trái, nhưng tháng thu nhập cũng được 6-8 triệu đồng, từ nghề phụ trở thành nghề mang lại thu nhập chính cho gia đình.

Tạo việc làm cho hàng ngàn lao động

Nhiều hộ khấm khá lên từ đan lát. Ai có nhu cầu làm được HTX cũng cấp khung, vật tư đầu vào và chỉ bảo kỹ lưỡng cách thức tạo ra một sản phẩm

Cùng với các thành viên, các hộ nông dân trong vùng cũng muốn tham gia công việc. Thời điểm hàng hóa bán chạy, có tới hơn 1.000 lao động trên địa bàn huyện Tân Lạc tham gia làm thuê cho HTX.

Hoạt động đan lát vừa giúp các hộ dân phát triển kinh tế, cũng góp phần cải thiện đời sống, giảm nghèo cho những hộ có hoàn cảnh khó khăn.

Gia đình bà Bùi Thị Nhịn, xóm Nen xã Thanh Hối, hoàn cảnh éo leo, con bà mất sớm để lại hai cháu nhỏ đang tuổi ăn học. Dù tuổi cao sức yếu, hàng ngày bà vẫn nhận thêm việc về đan lát, bình quân mỗi tháng có thu nhập khoảng 3,5 – 4 triệu đồng.

Trước đây, HTX thường dùng mây, tre, nứa, giang, bèo, song, guột… làm nguyên liệu đan hàng, hiệu quả kinh tế cũng cao. Để tăng độ bền cho thành phẩm, sau khi hoàn tất mọi công đoạn thường đưa vào lò sấy bằng diêm sinh. Sản phẩm bền, đẹp nhưng diêm sinh là chất độc hại, làm lâu dài sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động.

Sau này, qua quá trình tìm kiếm, Giám đốc HTX Nguyễn Thị Bảy đã gặp đối tác có nhu cầu xuất khẩu hàng đan lát bằng cỏ tranh và chị đã liên kết với doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất thân thiện với môi trường. Sản phẩm làm bằng cỏ tranh sau khi hoàn thiện chỉ cần sấy ở nhiệt độ trên 50 độ C, không cần dùng diêm sinh xử lý.

Chị Bảy cho biết, năm 2020, HTX bắt đầu đan lát bằng vật liệu mới – cỏ tranh. Hành trình này khá gian nan, nguyên liệu mới phải đào tạo lại cho người dân, nhiều người không biết làm sản phẩm, tỷ lệ loại bỏ rất cao.

“Thời điểm đó, 10 sản phẩm hỏng tới 6-7 cái, những vật dụng đan bằng cỏ tranh lỗi hỏng chẳng bán được cho ai, tôi buộc lòng phải chất đống đem đốt. Chỉ trong 6 tháng cuối năm 2020 đến đầu năm 2021, số hàng bị thiêu hủy quy ra tiền lên tới hàng tỷ đồng.

Nhìn ngọn lửa cháy rừng rực mà lòng dạ xót xa, nhưng tôi quyết không bỏ cuộc, mà động viên, hướng dẫn kỹ lưỡng cho bà con. Sau một thời gian vượt khó, công việc cũng vào khuôn khổ, sản xuất hàng hóa bắt đầu ổn định, hàng hỏng lỗi chỉ chiếm tỷ lệ 3-5%”, chị Bảy kể.

Bình quân mỗi năm, doanh số do nghề đan lát xuất khẩu mang lại khoảng hơn 2 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau 2 năm đại dịch Covid-19, kinh tế toàn cầu suy thoái, ngành nghề xuất khẩu bị ảnh hưởng, xuất bán chậm hơn hẳn.

Tháng 9 năm ngoái, đơn hàng đạt cao điểm, chỉ trong vòng một tháng, HTX xuất đi 3 container hàng, giá trị 900 triệu đồng. Tháng 9 năm nay, doanh thu chỉ đạt khoảng 250 triệu đồng, chưa bằng 1/3.

Tiên phong đưa cây nha đam về Hòa Bình

Sự khó khăn của thị trường khiến chị Bảy cùng ban quản trị HTX luôn trăn trở trong việc tính toán tạo việc làm cho thành viên. Tiếp tục mày mò nghiên cứu thị trường, chị phát hiện cây nha đam có rất nhiều công dụng có thể dùng làm dược liệu, thực phẩm, làm nguyên liệu trong ngành công nghiệp hóa mỹ phẩm… Hơn nữa, cây nha đam thích hợp với khí hậu miền núi, đất đồi có dộ dốc thoải. Một lần nữa, chị lại lặn lội đi tìm đối tác chất lượng.

“Ban đầu, khi chuẩn bị làm, rất nhiều người gàn tôi rằng nha đam chưa ai trồng, cẩn thận không bỏ bao tiền vào thất bại là mất hết. Nhưng tôi đã tìm hiểu rất kỹ lưỡng về tính năng công dụng, cách thức chăm bón và trồng cây nha đam. Đặc biệt tiềm năng kinh tế của loại cây này rất lớn”, chị cho biết.

Công ty BIOBIEE Việt Pháp – đơn vị ký liên kết với HTX đã sản xuất ra rất nhiều loại sản phẩm đang được tiêu thụ mạnh trên thị trường như: thạch nha đam, nước sát khuẩn, sữa tắm trẻ em, nước giặt, nước lau sàn, nước rửa chén, nước rửa bồn cầu, xịt nội thất ô tô…, nhu cầu mở rộng vùng nguyên liệu của công ty rất lớn.

Từ cuối năm 2022 đến nay, chị Bảy quyết định “bắt tay” với doanh nghiệp trở thành người đầu tiên đem cây nha đam về trồng trên đất Hòa Bình. Công ty cam kết hỗ trợ 60% giá trị cây giống cho bà con và ký hợp đồng bao tiêu ổn định trong 4 năm.

“Tôi xác định, bất cứ ngành hàng nào trong thời gian đầu mới đưa vào thử nghiệm cũng không tránh khỏi nguy cơ tiềm ẩn tính rủi ro cao, nhưng nếu cứ sợ mạo hiểm không thử thì làm sao biết được”, chị Bảy nói.

Sau gần một năm trồng thử và xuất bán cây nha đam, hiệu quả kinh tế thu được tương đối khả quan. Các thành viên và hộ liên kết tích cực tham gia trồng. Theo chị Bảy, cái hay của việc trồng cây nha đam chính ở chỗ đây là loại cây có sức kháng bệnh khá tốt. Một cây trồng mới khoảng một năm bắt đầu cho thu hoạch. HTX nhập cây nhỡ về trồng để rút ngắn giai đoạn.

Bình quân khoảng 30-35 ngày, cây cho thu hoạch một lượt, một năm có thể cho 6-8 lượt thu, liên tục trong vòng 4 năm. Ban đầu, thân cây là dạng thảo mộc, sau 4 năm thân chuyển sang thể gỗ.

Hiện, HTX có 10 ha thử nghiệm chuyên canh cây nha đam, 20 hộ tham gia trồng. Các hộ tham gia trồng nha đam được hướng dẫn về kỹ thuật chăm bón, cách phòng trừ dịch bệnh, trừ sâu hại nên hoạt động trồng thử nghiệm diễn ra tương đối thuận lợi, bước đầu tạo nguồn thu cho nông dân.

Tính đến thời điểm này, nha đam đã cho thu hoạch 4 lượt với lượt sau tăng cao hơn lượt trước. Bình quân mỗi ha đợt 1 thu được 20 tấn, đợt 2 thu 25 tấn, đợt 3 thu 40 tấn, đợt 4 thu 55 tấn. Với giá thu mua cho bà con 2.400 đồng/kg như hiện tại, qua 4 đợt tổng số tiền thu được khoảng 27 triệu đồng trừ chi phí lợi nhuận đạt khoảng 7-8 triệu đồng.

Chị Bủi Thị Lý – thành viên HTX cho biết: “Tôi tham gia trồng thử nghiệm cây nha đam ngay từ những ngày đầu tiên. Quy trình trồng không quá phức tạp, chúng tôi được cán bộ kỹ thuật hướng dẫn về cách thức chăm sóc”.

Điểm đặc biệt của cây nha đam là giống khỏe, kháng bệnh tốt không cần dùng thuốc trừ sâu. Phân bón được bà con dùng tới 90% tỷ lệ phân chuồng ủ hoai mục được xử lý thông qua chế phẩm sinh học để kích bộ rễ khỏe.

Để diệt nấm, bà con cũng được hướng dẫn dùng loại thuốc sinh học. So với các loại cây trồng khác, cây nha đam khiến các thành viên HTX yên tâm vì hiệu quả kinh tế cũng như cách chăm sóc, không lo độc hại đến sức khỏe người trồng.

Thử nghiệm bước đầu thành công, hiện HTX được công ty ủy quyền ký kết với các cộng tác viên phát triển vùng trồng tại Hòa Bình.

Trong tương lai, HTX xác định cây nha đam sẽ là hướng đi mới, một trong những loại cây chủ lực phát triển kinh tế của HTX. Nếu thuận lợi, năm tới HTX sẽ mở rộng 30 ha trồng nha đam tại huyện Tân Lạc và mong muốn xây dựng nhà máy chế biến để tăng giá trị sản phẩm, tạo thu nhập tốt hơn cho bà con nông dân.

Việc liên kết giữa HTX và doanh nghiệp không chỉ giải quyết công ăn việc làm cho các thành viên, mà còn với cả các hộ liên kết, đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn.

Những hướng đi đúng đắn đã mang về doanh thu bình quân 2,5 tỷ đồng/năm cho HTX, năm nay doanh số ước đạt khoảng 3 tỷ đồng. Lợi nhuận bình quân đạt khoảng 150- 200 triệu đồng, tạo thu nhập cho các thành viên đạt khoảng 5-6 triệu đồng/tháng.

Việc chủ động bắt tay với doanh nghiệp đã góp phần giải quyết nỗi lo bao năm của các thành viên và nông dân trên địa bàn huyện Tân Lạc về vấn đề trồng cây gì, nuôi con gì, bán cho ai, giá thế nào? Đây là hướng đi tất yếu, tạo thành quả vững chắc, tạo công ăn việc làm ổn định, giúp nâng cao đời sống cho thành viên HTX, nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số Mường, Thái ngay tại địa phương.

Theo Thời Báo Kinh Doanh

All in one
Scroll to Top